Khắc phục tình trạng nông dân bỏ đất, không canh tác: Cần giải pháp “tiếp sức dân”

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp - PTNT, từ đầu năm đến nay, diện tích đất nông dân “để trống”,  không canh tác là 224 ha (năm 2006 là 209 ha). Tuy vậy, thực tế, con số có thể lớn hơn nhiều. Ngoài ra, ở hầu hết  địa phương đều có  tình trạng nông dân không gắn bó với đồng ruộng.

Nhiều nông dân bán ruộng, trả ruộng

Tại một số địa phương  xuất hiện tình trạng nông dân làm đơn đề nghị trả ruộng cho chính quyền địa phương. Phó Chủ tịch UBND xã Trường Thọ (An Lão) Nguyễn Quốc Bảo cho biết: Đầu vụ mùa vừa qua 27 hộ dân có đơn đề nghị trả ruộng, cho UBND xã không tiếp tục canh tác. Số ruộng này thuộc quỹ đất công ích 5% do xã quản lý, giao các hộ thuê thầu. Hiện xã  vận động các hộ này gieo cấy nốt vụ mùa với điều kiện mức  nộp xã giảm 20%/ sào. Xã đang lo khi thu hoạch xong vụ mùa, số  hộ trả ruộng nhiều  hơn, trong khi địa phương chưa có giải pháp sử dụng hậu quả đất công ích 5% nằm rải rác tại 4 thôn”. Theo ông Phạm Văn Dũng, trưởng thôn Xuân Đài (Trường Thọ, An Lão), thôn có một số hộ làm đơn trả lại ruộng (thuộc quỹ đất 5%) cho UBND xã, như hộ ông Trần Văn Quyết, Trần Văn Khoà, Bùi Văn Thường làm đơn xin trả 5 sào ruộng. Các thôn Liễu Dinh, Ngọc Chử, Đồng Xuân cũng liên tục có hộ gửi đơn trả ruộng. Một số hộ  trả toàn bộ ruộng thuê thầu từ quỹ đất 5% như các ông Phạm Văn Nghĩa ở thôn Ngọc Chử, Đặng Văn Giang ở thôn Liễu Dinh…Tình trạng người dân trả ruộng giao thầu từ đất công ích cũng  lác đác tại các xã Du Lễ, Đại Hà, Hữu Bằng, Thuỵ Hương (Kiến Thụy), các huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Thuỷ Nguyên.

Hàng nghìn m2 đất canh tác nông nghiệp tại xã Đại Thắng (Tiên Lãng) được thu hồi để phát triển cụm công nghiệp, nhưng hiện vẫn bỏ hoang
Một số địa phương còn có tình trạng nông dân ồ ạt bán ruộng, cho nhau hoặc cho người ở nội thành và các địa phương khác. Anh Ngô Văn Chương, trưởng thôn Đại Thắng, xã Hoà Nghĩa khẳng định: Việc người dân ngầm bán ruộng cho nhau. Nổi lên khá rõ là khu vực cánh đồng chiêm rộng hơn 30 ha của khoảng hơn 300 hộ. Nhiều năm nay, khu vực này chỉ gieo cấy 1 vụ chiêm- xuân, năng suất thấp, thu nhập kém. 2 năm gần đây, các hộ  tại khu vực này đều có nhu cầu bán ruộng, giá bán trung bình hiện khoảng 17-18 triệu đồng/ sào. Năm ngoái, một vài người trong thôn như ông Phạm Văn Đan, anh Phạm Văn Lộc mua ruộng của một số hộ tại đây với giá hơn 3 triệu đồng/ sào. Các hộ dân bán ruộng ngầm cho nhau để xây dựng trang trại, nuôi thủy sản không làm giấy tờ thông qua chính quyền địa phương”. Theo anh Phương, những ruộng sát các tuyến đường lớn, chủ yếu do người  từ nội thành vào mua với giá khá cao. Ví dụ ở khu ruộng sát đường 402 (đường từ Hoà Nghĩa đi Minh Tân) có một số hộ dân bán ruộng cho 1 dự án với mức giá 20-30 triệu đồng/ sào. Nhiều diện tích ruộng vừa mua xong, chủ mới đã vật đất tôn cao chờ thời cơ biến đất nông nghiệp thành đất vườn, đất làm nhà ở.

Ông Ngô Xuân Ca, Chủ tịch UBND xã Hoà Nghĩa (Kiến Thụy) cho biết, do các hộ dân ngầm bán đất cho nhau bằng việc viết giấy trao tay, không qua chính quyền địa phương nên đến thời điểm này xã chưa nắm được cụ thể số  hộ bán đất mà chỉ biết tình hình qua các trưởng thôn và dư luận nhân dân.  Khi đến các hộ này kiểm tra, các hộ bảo  nhau mượn hoặc cho thuê để sản xuất nông nghiệp, không vi phạm pháp luật. Đây cũng là tình trạng chung ở nhiều địa phương khác. Phó chủ tịch UBND xã Trường Thọ (An Lão) Nguyễn Quốc Bảo khẳng định: “Tại  các thôn trong xã đều có việc các hộ dân ngầm bán đất cho nhau, giá trung bình 700 nghìn- 1 triệu đồng/sào, bán trọn gói đến khi Nhà nước thu hồi đất (năm 2013), bán dưới hình thức viết giấy trao tay nên địa phương không kiểm soát được.

Phổ biến tình trạng cho thuê ruộng

Người nông dân dù “méo mặt” vì chi phí tăng, nhưng vẫn phải bám lấy ruộng, nếu như không kiếm được nghề nào khác. Do vậy, nhiều hộ dân dù không thiết tha sản xuất nông nghiệp vẫn giữ ruộng được giao theo Nghị định 64. Tuy nhiên, hiện tượng phổ biến hiện nay ở ngoại thành là nhiều hộ dân cho mượn hoặc cho thuê ruộng. Ông Phạm Văn Thưởng ở xã Đoàn Xá (Kiến Thụy) cho biết, gia đình con trai ông được giao 5 sào ruộng từ năm 1994; sau đó 2 năm, gia đình chuyển vào miền Nam làm ăn, nhưng 5 sào ruộng vẫn còn giữ. Do không có người làm, gia đình cho người khác cấy thuê, họ phải đóng góp các khoản quỹ. Ở thôn Địch Lương (xã Thanh Lương, Vĩnh Bảo), nhiều gia đình có ruộng cho thuê như bà Đào Thị Én, 8 khẩu, được chia 1,6 mẫu ruộng. Mấy năm qua, do con cái đi làm ăn xa, bà cho người trong làng thuê cấy. Mỗi sào, bà cho thuê với mức 70- 100 kg thóc, tính ra mỗi vụ bà có hơn 1 tấn thóc, dù không phải “động tay” sản xuất nông nghiệp.

Không canh tác vì thu không bù chi

Trưởng thôn Phương Lung, xã Hưng Đạo, Kiến Thụy cho biết: “Nhiều người dân không còn mặn mà với đồng ruộng, bỏ ruộng không gieo cấy, vì thu nhập từ nông nghiệp quá thấp. Nhà tôi có 5 tiêu chuẩn cấy ruộng, mỗi tiêu chuẩn được 1,6 sào. Đến vụ thu hoạch, trừ các loại chi phí, mỗi suất ruộng còn dư ra khoảng 100-150 nghìn đồng. Tính ra, làm việc đồng ruộng trong 6 tháng, mỗi ngày công chưa được nổi 1 nghìn đồng. Trong khi đó, trên địa bàn xã có tới hơn chục nhà máy, xí nghiệp, nên phần lớn các lao động trẻ trên địa bàn đi làm công nhân. Lương thấp nhất cũng hơn 1 triệu đồng/ tháng, gấp mấy lần bố mẹ cày cấy trong 6 tháng trời”. Cũng vì lý do này, tại xã Hưng Đạo hiện có khoảng 40% số gia đình trẻ có ruộng nhưng không sản xuất nông nghiệp mà cho các hộ khác thuê hoặc cho mượn dài hạn để sản xuất tạm”.

Ông Nguyễn Văn Tập nông dân ở làng Phủ Niệm, xã Thái Sơn (An Lão)  bức xúc: Hiện nay, giá vật tư nông nghiệp tăng gấp 2-3 lần so với 2 năm trước, trong khi giá nông sản chỉ tăng khoảng 1,3 lần. Làm phép tính đơn giản, kể cả khi được mùa, người nông dân cũng không có lãi. Vụ chiêm- xuân vừa rồi, mất mùa, trong khi chi phí cho sản xuất cả vụ cho 1 sào lúa hơn 600 nghìn đồng, chưa kể hàng chục khoản đóng góp phải nộp, các hộ dân trong thôn lỗ khoảng 60- 80 nghìn đồng/ sào. Nhiều người trong xã đã bỏ ruộng không canh tác để lên thành phố tìm việc, ngày ít nhất cũng thu nhập 10- 20 nghìn đồng”.Tại xã Trường Thọ (An Lão) còn có trường hợp bà Nguyễn Thị Đào ở thôn Đồng Xuân bỏ ruộng trong vụ mùa không cấy, xã phải huy động hội viên Hội phụ nữ làm đất, cày cấy hộ,  bà Đào mới  nhận lại ruộng để chăm sóc. Nguyên nhân cũng chỉ vì thu nhập từ cấy lúa quá thấp, không bù nổi chi phí đầu tư sản xuất.

Theo Sở Nông nghiệp- PTNT, qua điều tra thực tế, hiện người nông dân chi phí cho 1 sào lúa trung bình 604 nghìn đồng, nếu được mùa, bà con có thu nhập khoảng 660 nghìn đồng, lãi 55 nghìn đồng. Trong khi đó, qua khảo sát 60 xã trên địa bàn thành phố, hiện nông dân phải đóng góp gần 40 khoản quỹ, phí, lệ phí, tổng số tiền hằng năm bình quân 740 nghìn đồng/ hộ, không tương xứng với thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Thêm vào đó là sự chênh lệch ngày càng lớn giữa thu nhập của nông thôn và thành thị,khiến nhiều nông dân không thiết tha sản xuất nông nghiệp.

Bỏ canh tác vì quy hoạch, ô nhiễm nguồn nước

Theo phản ánh của các huyện, một trong những nguyên nhân khiến nhiều nông dân phải bỏ đất canh tác là do nhiều diện tích đất không thuận lợi cho sản xuất như bị kẹt giữa các dự án, đồng ruộng bị phá vỡ hệ thống thủy lợi, ô nhiễm nguồn nước tưới. Toàn thành phố hiện có 60-70 ha đất canh tác không thể sản xuất được do hàng loạt dự án phát triển đô thị, thương mại, nhà ở, công nghiệp vào lấy đất, phá vỡ hệ thống thủy lợi, người dân không còn nước tưới tiêu. Điển hình như ở xã Anh Dũng (Kiến Thụy), từ năm 2000 đến nay,  còn lại 48 ha, thuộc hai thôn Trà Khê và Phấn Dũng nhưng do các dự án san lấp mặt bằng, hệ thống thuỷ lợi của khu vực này bị ách tắc, gần như vô hiệu hoá nên không thể tiếp tục sản xuất. Từ vụ chiêm 2003, các hộ dân còn đất nông nghiệp ở xã gần như đồng loạt phải bỏ ruộng. Tính ra, có tất cả 473 hộ bỏ ruộng .Vụ mùa năm nay, nhờ tích cực cải tạo thủy lợi, ngăn xâm nhập mặn, xã Anh Dũng đưa hơn 28 ha đất nông nghiệp (diện tích đất còn lại) vào cấy lúa nhưng người dân vẫn lo, sợ lúa chết dần. Cùng chung cảnh ngộ như xã Anh Dũng là một số thôn thuộc các xã Ngũ Lão, Thiên Hương (Thủy Nguyên)…

Các vùng ven đô như An Hồng, An Đồng (An Dương), Hưng Đạo (Kiến Thụy),  Sở Dầu (quận Hồng Bàng),  Trường Sơn ( An Lão)...lại phải đối mặt với tình trạng nhiều mảnh ruộng nhỏ phải bỏ hoang vì đất nằm kẹt giữa các dự án. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp-PTNT, diện tích đất bị kẹt giữa các dự án, bị ô nhiễm môi trường không sản xuất được từ đầu năm đến nay là 40- 45 ha. Việc quản lý, sử dụng các diện tích đất “đầu thừa, đuôi thẹo” xen giữa các dự án rất khó khăn. Gần như các diện tích đất này trong tình trạng “bỏ hoang” vì không thuộc quản lý của các doanh nghiệp, người dân cũng không canh tác, sản xuất được. Theo cán bộ các xã này, hiện nay, nhiều nông dân có đất nằm kẹt giữa các dự án sau nhiều vụ trồng cấy không cho thu hoạch có tư tưởng chán đầu tư sản xuất, mong có dự án mới vào lấy nốt diện tích đất này để thu lợi từ tiền đền bù. Ngoài ra, còn khoảng 75 ha đất cấy lúa giao cho các dự án nhưng để nhiều năm chưa thực hiện, nằm rải rác ở các huyện Kiến Thụy, Thủy Nguyên, An Lão, An Dương.

(Còn tiếp)

Nhiều nông dân bán ruộng, trả ruộng

Tại một số địa phương  xuất hiện tình trạng nông dân làm đơn đề nghị trả ruộng cho chính quyền địa phương. Phó Chủ tịch UBND xã Trường Thọ (An Lão) Nguyễn Quốc Bảo cho biết: Đầu vụ mùa vừa qua 27 hộ dân có đơn đề nghị trả ruộng, cho UBND xã không tiếp tục canh tác. Số ruộng này thuộc quỹ đất công ích 5% do xã quản lý, giao các hộ thuê thầu. Hiện xã  vận động các hộ này gieo cấy nốt vụ mùa với điều kiện mức  nộp xã giảm 20%/ sào. Xã đang lo khi thu hoạch xong vụ mùa, số  hộ trả ruộng nhiều  hơn, trong khi địa phương chưa có giải pháp sử dụng hậu quả đất công ích 5% nằm rải rác tại 4 thôn”. Theo ông Phạm Văn Dũng, trưởng thôn Xuân Đài (Trường Thọ, An Lão), thôn có một số hộ làm đơn trả lại ruộng (thuộc quỹ đất 5%) cho UBND xã, như hộ ông Trần Văn Quyết, Trần Văn Khoà, Bùi Văn Thường làm đơn xin trả 5 sào ruộng. Các thôn Liễu Dinh, Ngọc Chử, Đồng Xuân cũng liên tục có hộ gửi đơn trả ruộng. Một số hộ  trả toàn bộ ruộng thuê thầu từ quỹ đất 5% như các ông Phạm Văn Nghĩa ở thôn Ngọc Chử, Đặng Văn Giang ở thôn Liễu Dinh…Tình trạng người dân trả ruộng giao thầu từ đất công ích cũng  lác đác tại các xã Du Lễ, Đại Hà, Hữu Bằng, Thuỵ Hương (Kiến Thụy), các huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Thuỷ Nguyên.

Một số địa phương còn có tình trạng nông dân ồ ạt bán ruộng, cho nhau hoặc cho người ở nội thành và các địa phương khác. Anh Ngô Văn Chương, trưởng thôn Đại Thắng, xã Hoà Nghĩa khẳng định: Việc người dân ngầm bán ruộng cho nhau. Nổi lên khá rõ là khu vực cánh đồng chiêm rộng hơn 30 ha của khoảng hơn 300 hộ. Nhiều năm nay, khu vực này chỉ gieo cấy 1 vụ chiêm- xuân, năng suất thấp, thu nhập kém. 2 năm gần đây, các hộ  tại khu vực này đều có nhu cầu bán ruộng, giá bán trung bình hiện khoảng 17-18 triệu đồng/ sào. Năm ngoái, một vài người trong thôn như ông Phạm Văn Đan, anh Phạm Văn Lộc mua ruộng của một số hộ tại đây với giá hơn 3 triệu đồng/ sào. Các hộ dân bán ruộng ngầm cho nhau để xây dựng trang trại, nuôi thủy sản không làm giấy tờ thông qua chính quyền địa phương”. Theo anh Phương, những ruộng sát các tuyến đường lớn, chủ yếu do người  từ nội thành vào mua với giá khá cao. Ví dụ ở khu ruộng sát đường 402 (đường từ Hoà Nghĩa đi Minh Tân) có một số hộ dân bán ruộng cho 1 dự án với mức giá 20-30 triệu đồng/ sào. Nhiều diện tích ruộng vừa mua xong, chủ mới đã vật đất tôn cao chờ thời cơ biến đất nông nghiệp thành đất vườn, đất làm nhà ở.

Ông Ngô Xuân Ca, Chủ tịch UBND xã Hoà Nghĩa (Kiến Thụy) cho biết, do các hộ dân ngầm bán đất cho nhau bằng việc viết giấy trao tay, không qua chính quyền địa phương nên đến thời điểm này xã chưa nắm được cụ thể số  hộ bán đất mà chỉ biết tình hình qua các trưởng thôn và dư luận nhân dân.  Khi đến các hộ này kiểm tra, các hộ bảo  nhau mượn hoặc cho thuê để sản xuất nông nghiệp, không vi phạm pháp luật. Đây cũng là tình trạng chung ở nhiều địa phương khác. Phó chủ tịch UBND xã Trường Thọ (An Lão) Nguyễn Quốc Bảo khẳng định: “Tại  các thôn trong xã đều có việc các hộ dân ngầm bán đất cho nhau, giá trung bình 700 nghìn- 1 triệu đồng/sào, bán trọn gói đến khi Nhà nước thu hồi đất (năm 2013), bán dưới hình thức viết giấy trao tay nên địa phương không kiểm soát được.

Phổ biến tình trạng cho thuê ruộng

Người nông dân dù “méo mặt” vì chi phí tăng, nhưng vẫn phải bám lấy ruộng, nếu như không kiếm được nghề nào khác. Do vậy, nhiều hộ dân dù không thiết tha sản xuất nông nghiệp vẫn giữ ruộng được giao theo Nghị định 64. Tuy nhiên, hiện tượng phổ biến hiện nay ở ngoại thành là nhiều hộ dân cho mượn hoặc cho thuê ruộng. Ông Phạm Văn Thưởng ở xã Đoàn Xá (Kiến Thụy) cho biết, gia đình con trai ông được giao 5 sào ruộng từ năm 1994; sau đó 2 năm, gia đình chuyển vào miền Nam làm ăn, nhưng 5 sào ruộng vẫn còn giữ. Do không có người làm, gia đình cho người khác cấy thuê, họ phải đóng góp các khoản quỹ. Ở thôn Địch Lương (xã Thanh Lương, Vĩnh Bảo), nhiều gia đình có ruộng cho thuê như bà Đào Thị Én, 8 khẩu, được chia 1,6 mẫu ruộng. Mấy năm qua, do con cái đi làm ăn xa, bà cho người trong làng thuê cấy. Mỗi sào, bà cho thuê với mức 70- 100 kg thóc, tính ra mỗi vụ bà có hơn 1 tấn thóc, dù không phải “động tay” sản xuất nông nghiệp.

Không canh tác vì thu không bù chi

Trưởng thôn Phương Lung, xã Hưng Đạo, Kiến Thụy cho biết: “Nhiều người dân không còn mặn mà với đồng ruộng, bỏ ruộng không gieo cấy, vì thu nhập từ nông nghiệp quá thấp. Nhà tôi có 5 tiêu chuẩn cấy ruộng, mỗi tiêu chuẩn được 1,6 sào. Đến vụ thu hoạch, trừ các loại chi phí, mỗi suất ruộng còn dư ra khoảng 100-150 nghìn đồng. Tính ra, làm việc đồng ruộng trong 6 tháng, mỗi ngày công chưa được nổi 1 nghìn đồng. Trong khi đó, trên địa bàn xã có tới hơn chục nhà máy, xí nghiệp, nên phần lớn các lao động trẻ trên địa bàn đi làm công nhân. Lương thấp nhất cũng hơn 1 triệu đồng/ tháng, gấp mấy lần bố mẹ cày cấy trong 6 tháng trời”. Cũng vì lý do này, tại xã Hưng Đạo hiện có khoảng 40% số gia đình trẻ có ruộng nhưng không sản xuất nông nghiệp mà cho các hộ khác thuê hoặc cho mượn dài hạn để sản xuất tạm”.

Ông Nguyễn Văn Tập nông dân ở làng Phủ Niệm, xã Thái Sơn (An Lão)  bức xúc: Hiện nay, giá vật tư nông nghiệp tăng gấp 2-3 lần so với 2 năm trước, trong khi giá nông sản chỉ tăng khoảng 1,3 lần. Làm phép tính đơn giản, kể cả khi được mùa, người nông dân cũng không có lãi. Vụ chiêm- xuân vừa rồi, mất mùa, trong khi chi phí cho sản xuất cả vụ cho 1 sào lúa hơn 600 nghìn đồng, chưa kể hàng chục khoản đóng góp phải nộp, các hộ dân trong thôn lỗ khoảng 60- 80 nghìn đồng/ sào. Nhiều người trong xã đã bỏ ruộng không canh tác để lên thành phố tìm việc, ngày ít nhất cũng thu nhập 10- 20 nghìn đồng”.Tại xã Trường Thọ (An Lão) còn có trường hợp bà Nguyễn Thị Đào ở thôn Đồng Xuân bỏ ruộng trong vụ mùa không cấy, xã phải huy động hội viên Hội phụ nữ làm đất, cày cấy hộ,  bà Đào mới  nhận lại ruộng để chăm sóc. Nguyên nhân cũng chỉ vì thu nhập từ cấy lúa quá thấp, không bù nổi chi phí đầu tư sản xuất.

Theo Sở Nông nghiệp- PTNT, qua điều tra thực tế, hiện người nông dân chi phí cho 1 sào lúa trung bình 604 nghìn đồng, nếu được mùa, bà con có thu nhập khoảng 660 nghìn đồng, lãi 55 nghìn đồng. Trong khi đó, qua khảo sát 60 xã trên địa bàn thành phố, hiện nông dân phải đóng góp gần 40 khoản quỹ, phí, lệ phí, tổng số tiền hằng năm bình quân 740 nghìn đồng/ hộ, không tương xứng với thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Thêm vào đó là sự chênh lệch ngày càng lớn giữa thu nhập của nông thôn và thành thị,khiến nhiều nông dân không thiết tha sản xuất nông nghiệp.

Bỏ canh tác vì quy hoạch, ô nhiễm nguồn nước

Theo phản ánh của các huyện, một trong những nguyên nhân khiến nhiều nông dân phải bỏ đất canh tác là do nhiều diện tích đất không thuận lợi cho sản xuất như bị kẹt giữa các dự án, đồng ruộng bị phá vỡ hệ thống thủy lợi, ô nhiễm nguồn nước tưới. Toàn thành phố hiện có 60-70 ha đất canh tác không thể sản xuất được do hàng loạt dự án phát triển đô thị, thương mại, nhà ở, công nghiệp vào lấy đất, phá vỡ hệ thống thủy lợi, người dân không còn nước tưới tiêu. Điển hình như ở xã Anh Dũng (Kiến Thụy), từ năm 2000 đến nay,  còn lại 48 ha, thuộc hai thôn Trà Khê và Phấn Dũng nhưng do các dự án san lấp mặt bằng, hệ thống thuỷ lợi của khu vực này bị ách tắc, gần như vô hiệu hoá nên không thể tiếp tục sản xuất. Từ vụ chiêm 2003, các hộ dân còn đất nông nghiệp ở xã gần như đồng loạt phải bỏ ruộng. Tính ra, có tất cả 473 hộ bỏ ruộng .Vụ mùa năm nay, nhờ tích cực cải tạo thủy lợi, ngăn xâm nhập mặn, xã Anh Dũng đưa hơn 28 ha đất nông nghiệp (diện tích đất còn lại) vào cấy lúa nhưng người dân vẫn lo, sợ lúa chết dần. Cùng chung cảnh ngộ như xã Anh Dũng là một số thôn thuộc các xã Ngũ Lão, Thiên Hương (Thủy Nguyên)…

Các vùng ven đô như An Hồng, An Đồng (An Dương), Hưng Đạo (Kiến Thụy),  Sở Dầu (quận Hồng Bàng),  Trường Sơn ( An Lão)...lại phải đối mặt với tình trạng nhiều mảnh ruộng nhỏ phải bỏ hoang vì đất nằm kẹt giữa các dự án. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp-PTNT, diện tích đất bị kẹt giữa các dự án, bị ô nhiễm môi trường không sản xuất được từ đầu năm đến nay là 40- 45 ha. Việc quản lý, sử dụng các diện tích đất “đầu thừa, đuôi thẹo” xen giữa các dự án rất khó khăn. Gần như các diện tích đất này trong tình trạng “bỏ hoang” vì không thuộc quản lý của các doanh nghiệp, người dân cũng không canh tác, sản xuất được. Theo cán bộ các xã này, hiện nay, nhiều nông dân có đất nằm kẹt giữa các dự án sau nhiều vụ trồng cấy không cho thu hoạch có tư tưởng chán đầu tư sản xuất, mong có dự án mới vào lấy nốt diện tích đất này để thu lợi từ tiền đền bù. Ngoài ra, còn khoảng 75 ha đất cấy lúa giao cho các dự án nhưng để nhiều năm chưa thực hiện, nằm rải rác ở các huyện Kiến Thụy, Thủy Nguyên, An Lão, An Dương.

(Còn tiếp)