Khắc phục sạt lở vùng bờ sông, bờ biển ĐBSCL: Thiếu giải pháp căn cơ

Hiện ĐBSCL có hơn 562 vị trí bờ sông, biển bị sạt lở với tổng chiều dài gần 786km, trong số đó có 59 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm
Hiện ĐBSCL có hơn 562 vị trí bờ sông, biển bị sạt lở với tổng chiều dài gần 786km, trong số đó có 59 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm
(PLVN) - Nhiều năm qua, vấn đề sạt lở cả bờ sông lẫn bờ biển tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã gây ra nhiều thiệt hại và bất ổn đối với đời sống dân cư, trong khi nhiều giải pháp khoa học kỹ thuật áp dụng lại còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hiệu quả.

562 vị trí sạt lở trên chiều dài 786km 

Theo đánh giá của Tổng cục phòng chống thiên tai (Bộ NN&PTNN), trong những năm gần đây, do diễn biến bất thường của thời tiết, nhất là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng cùng với tác động của việc phát triển kinh tế, xã hội kém bền vững tại các quốc gia ở thượng nguồn sông Mê Kông và nội vùng ĐBSCL, tình hình sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển đã và đang diễn biến rất phức tạp.

Từ năm 2007 trở về trước  (khi các hồ trên dòng chính sông Mê Kông chưa vận hành), tình hình sạt lở vùng ĐBSCL cũng xảy ra khá phổ biến, tại một số khu vực đã ghi nhận những thiệt hại do sạt lở gây ra, nhất là những khu vực tập trung dân cư, như: Thị xã Tân Châu, TP Long Xuyên (An Giang); Thị xã Hồng Ngự; TP Sa Đéc (Đồng Tháp); TP Vĩnh Long (Vĩnh Long). Tuy nhiên, thời điểm đó xu thế chung là ổn định, vùng ven biển có xu thế bồi là chính.  

Nhưng từ năm 2007 đến nay, diễn biến sạt lở bờ sông, bờ biển vùng ĐBSCL đã và đang có xu thế gia tăng cả về phạm vi và quy mô. Qua công tác quản lý và báo cáo của các địa phương, hiện ĐBSCL có đến hơn 562 vị trí bờ sông, biển bị sạt lở với tổng chiều dài gần 786km, trong số đó có 59 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm với tổng chiều dài 180km.

Đối mặt với thực trạng trên, những năm qua, vùng ĐBSCL đã được hỗ trợ đầu tư hàng ngàn tỷ đồng từ nguồn ngân sách TW, nguồn vốn ODA để xử lý sạt lở bờ sông, biển. Nhiều đề tài khoa học, dự án thử nghiệm đã được nghiên cứu, áp dụng nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp để xử lý sạt lở; trong đó, có những giải pháp đã phát huy hiệu quả, góp phần ổn định cuộc sống của người dân. 

Tuy nhiên, việc áp dụng các giải pháp còn thiếu đồng bộ, nhất là các giải pháp về quản lý nên hiệu quả chưa cao. Một số công trình áp dụng giải pháp kỹ thuật chưa phù hợp với điều kiện tự nhiên hoặc chưa bám sát các quy định về tiêu chuẩn thiết kế, thi công nên đã bị hư hỏng, hoặc không đạt được mục tiêu đề ra. 

Theo ông Vũ Xuân Thành, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục phòng chống thiên tai, những giải pháp kỹ thuật hiện nay đang áp dụng cho vấn đề sạt lở tại ĐBSCL có những tồn tại và hạn chế. Trước hết, các công trình phòng chống sạt lở bờ sông được thực hiện tại những khu vực đã bị sạt lở theo hướng hỏng đâu làm đấy, thiếu kế hoạch dài hạn, căn cơ cho toàn hệ thống sông, kênh, rạch trong vùng. 

Việc xác định tuyến chỉnh trị đối với kè lát mái (bảo vệ bờ trực tiếp) hầu hết đều lấn ra phía sông, không kết hợp giữa xây dựng tuyến kè với di dân tái định cư, dẫn đến khối lượng xử lý ổn định chân kè lớn, suất đầu tư cho 1km kè cao. Mặt khác, làm hạn chế khả năng thoát lũ cũng như gia tăng rủi ro do toàn bộ phần mái kè và đỉnh kè nằm trên phần đất đắp.Trong khi đó, đa số các kết cấu kè bảo vệ bờ dạng mái nghiêng kết hợp với tường đứng, nền tường đứng được gia cố bởi hệ thống cọc bê tông cốt thép, mỗi mặt cắt gồm hai cọc (một cọc đứng và một cọc xiên). Giải pháp này chỉ phù hợp với những khu vực đô thị, sạt lở sát cơ sở hạ tầng quan trọng không thể lùi tuyến kè vào phía trong.

Ông Vũ Xuân Thành chỉ ra một số tuyến kè bảo vệ bờ như các tuyến kè biển Hiệp Thạnh (Trà Vinh); kè biển Gành Hào(Bạc Liêu) là chưa phù hợp, quy mô công trình khá lớn, song diện tích bảo vệ còn hạn chế. Ví dụ tiếp theo là  kè giảm sóng Bà Mát (Cà Mau) chỉ có tác dụng trong khoảng hai năm đầu sau khi đưa vào sử dụng, không có tác dụng lâu dài do vật liệu giảm sóng chỉ bằng… tre.

Giảm khai thác cát, phủ xanh đất rừng…

Khi được hỏi về giải pháp khắc phục những vấn đề đã nêu trên, vị đại diện Tổng cục Phòng chống thiên tai cho rằng, trước hết cần cần tăng cường hợp tác quốc tế trong việc quản lý bền vững sông Mê Kông. 

Còn ở đồng bằng, chỉ cấp phép khai thác cát với khối lượng hợp lý đảm  bảo sự cân bằng tương đối; sử dụng hợp lý bùn cát nạo vét để san lấp, đắp đê, làm đường; nghiên cứu đề xuất các giải pháp thay thế cát san lấp và cát xây dựng, tiến tới không sử dụng cát để san lấp. 

Ngoài ra, cần quản lý chặt chẽ việc xây dựng nhà ở, công trình ven  sông để hạn chế chất tải lên bờ sông, kênh rạch, cản trở dòng chảy; quy hoạch chỉnh trị sông gắn với quy hoạch sử dụng đất ven sông theo hướng dành không gian thoát lũ; bố trí, sắp xếp từng bước di dời dân ra khỏi bờ sông, lòng sông, lòng kênh, rạch;…

“Về giải pháp công trình cần thực hiện chỉnh trị sông đảm bảo ổn định lòng dẫn, ổn định dòng chảy cả mùa lũ và mùa kiệt, tập trung vào sông Tiền, sông Hậu, chỉ xây dựng công trình phòng chống sạt lở tại những phân lưu, hợp lưu, khu tập trung dân cư, cơ sở hạ tầng quan trọng”, ông Thành nói.

Riêng đối với sạt lở bờ biển, ông Thành chú trọng giải pháp kiểm soát, tránh phá rừng và cần tăng cường trồng rừng thay thế. “Việc quản lý rừng ven biển gắn với trồng và khai thác nếu được làm tốt sẽ hạn chế tối đa việc sạt lở bờ biển trong tương lai”, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục phòng chống thiên tai khẳng định.

Tin cùng chuyên mục

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại buổi làm việc với Ban Thường vụ tỉnh Lào Cai.

Lào Cai cần khai thác tối đa lợi thế để sớm trở thành trung tâm du lịch, kinh tế cửa khẩu của vùng và cả nước

(PLVN) - Thủ tướng Phạm Minh Chính tin tưởng tỉnh Lào Cai sẽ sớm vươn lên trở thành trung tâm của vùng và cả nước về du lịch, kinh tế cửa khẩu, dịch vụ và công nghiệp; thuộc nhóm các tỉnh có thu nhập cao nhất cả nước; có không gian sinh thái, bản sắc, kết nối sáng tạo, là điểm đến yêu thích, thân thiện, hấp dẫn...

Đọc thêm

Chuyển đổi số trong Quân đội gắn với an toàn thông tin

Hội nghị triển khai nhiệm vụ về CĐS và thực hiện Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ CĐS quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06) trong Bộ Quốc phòng năm 2024. (Ảnh: mod.gov.vn)
(PLVN) - Chuyển đổi số trong Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là một xu thế tất yếu trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 mà còn là nhiệm vụ chiến lược, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Quân đội đã và đang triển khai đồng bộ các chính sách, giải pháp nhằm xây dựng lực lượng “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng yêu cầu quốc phòng trong kỷ nguyên số.

Hành trình bảo vệ chủ quyền không gian mạng trước thách thức thời đại

Thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, đồng chí Đại tá Vũ Hữu Hanh - PBTĐU, Tư lệnh Bộ Tư lệnh 86 trao Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba trao tặng Trung tâm 586. (Ảnh trong bài: Trung tâm 586)
(PLVN) - Không gian mạng là vùng “lãnh thổ đặc biệt” của quốc gia. Đấu tranh và bảo vệ chủ quyền không gian mạng là nhiệm vụ quan trọng thiết yếu, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Đảng ta nhận định rõ: Nguy cơ xảy ra chiến tranh mạng, mất an ninh thông tin ngày càng tăng và đặt ra mục tiêu phải chủ động phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả chiến tranh mạng.

80 năm vẻ vang Quân đội nhân dân Việt Nam

Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 được nhân dân thế giới ngợi ca là “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. (Ảnh tư liệu: dangcongsan.vn)
(PLVN) - Ngày 22/12/1944, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam chính thức ra đời, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc. Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, QĐND Việt Nam không chỉ ghi dấu ấn trong những chiến công vang dội, mà còn tiếp tục là lực lượng tiên phong trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng!

Tổng Bí thư Tô Lâm trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 12/12/2024. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
(PLVN) - Thời gian qua, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo. Tình hình càng phức tạp, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng càng nặng nề, khó khăn càng nhiều hơn. Trong bối cảnh đó, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đã và đang hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, góp phần quan trọng vào những thành tựu toàn diện của đất nước.

Diễn văn Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam

Diễn văn Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam
Sáng 20/12, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng, trọng thể tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024). Tổng Bí thư Tô Lâm, Bí thư Quân ủy Trung ương, dự và đọc Diễn văn tại Lễ kỷ niệm.

Lãnh đạo Đảng và Nhà nước viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 80 năm Ngày QĐND Việt Nam

Lãnh đạo Đảng và Nhà nước viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 80 năm Ngày QĐND Việt Nam
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944- 22/12/2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989- 22/12/2024), sáng 20/12/2024, tại Hà Nội, Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Quân ủy Trung ương – Quốc Bộ Quốc phòng đến đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nâng cao nhận thức quốc tế về tình hình nhân quyền ở Việt Nam

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ Đỗ Hùng Việt phát biểu chỉ đạo Hội thảo. Ảnh: BTC
(PLVN) - Ngày 19/12, Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ phối hợp với Báo Thế giới và Việt Nam tổ chức Hội thảo “Thông tin đối ngoại về quyền con người trong tình hình mới”. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ Đỗ Hùng Việt phát biểu chỉ đạo Hội thảo.

Thủ tướng chỉ đạo Bộ Công an 'vào cuộc' điều tra vụ cháy quán cà phê đường Phạm Văn Đồng

Hiện trường vụ cháy.

(PLVN) - Liên quan đến vụ cháy quán cà phê trên phố Phạm Văn Đồng (Hà Nội) khiến 11 người tử vong, Thủ tướng Phạm Minh Chính gửi lời thăm hỏi, chia buồn sâu sắc tới thân nhân, gia đình người bị nạn; đồng thời chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh tạo điều kiện tốt nhất để cứu chữa người bị thương trong vụ cháy; khẩn trương điều tra và xử lý nghiêm đối tượng vi phạm.