Binh sỹ kiên trung hay người rừng kỳ quái
Ông Onoda sinh năm 1922 trong một gia đình có cha mẹ đều là nhà giáo. Năm 1939, ông được nhận vào làm việc cho công ty mậu dịch và đến năm 20 tuổi thì bị gọi nhập ngũ. Trong quân đội, Onoda được đào tạo để trở thành một sỹ quan tình báo tại Trường tình báo Nakano.
Hoàn tất khóa học, năm 1944, ông đeo lon Trung úy và được phái tới đảo Lubang, Philippines với nhiệm vụ phá hoại các cảng biển, sân bay nhằm ngăn Mỹ tấn công vào đảo. Tới tháng 9/1945, dù quân Nhật đã rút lui sau khi bại trận nhưng Onoda và 3 đồng đội khác không hề hay biết.
Trung thành với mệnh lệnh, tiếp tục chiến đấu thà chết không đầu hàng của quân đội, họ tiếp tục cố thủ trong rừng ở đảo Lubang, cách thủ đô Manila của Philippines gần 200km về phía tây nam. Cũng giống như một số binh lính Nhật ở một số nơi khác trên thế giới, Onoda không tin vào những thông báo trên sóng phát thanh hay tờ rơi rằng chiến tranh đã kết thúc.
Ở trên đảo Lubang, Onoda và 3 đồng đội khác nhặt được một số tờ rơi thông báo về việc kết thúc chiến tranh. Thế nhưng, Onoda về sau kể lại rằng lúc đó ông lại nghĩ đó là trò lừa bịp của do Mỹ tạo ra. Những chiếc máy bay quân sự Mỹ bay ngang qua khu rừng mà ông ẩn nấp trong suốt những năm diễn ra cuộc chiến tranh ở Việt Nam càng khiến ông tin rằng thế chiến thứ II vẫn còn đang tiếp diễn.
Từ trong rừng sâu, cả nhóm binh sĩ dựng lên những túp lều bằng tre, ăn cắp gạo và các loại thực phẩm khác của những người dân sống ở một ngôi làng ở gần đó, giết bò lấy thịt ăn. Kiên cường chống chọi sự khắc nghiệt của thời tiết, chuột và muỗi, họ vẫn giữ bộ quân phục và cây súng bên mình, luôn sẵn sàng chiến đấu.
Cả nhóm tìm mọi cách để lẩn trốn các nhóm tìm kiếm người Mỹ và Philippines, đồng thời tấn công cả những người dân trên đảo. Đến năm 1950, 1 người trong số họ đầu hàng, nhờ vậy người ta mới biết đến sự tồn tại của cả nhóm. Tuy nhiên những người còn lại vẫn tiếp tục cố thủ và “chiến đấu”.
Năm 1954, một người bị bắn chết. Đến năm 1972, người thứ 3 trong nhóm thiệt mạng trong một cuộc đụng độ với cảnh sát, chỉ còn lại một mình Onoda. Đến năm 1959, sau 9 năm tìm kiếm, giới chức Nhật tuyên bố binh sỹ Onoda cũng đã chết.
Tuy nhiên, 15 năm sau, đến năm 1974, một sinh viên Nhật Bản tên Norio Suzuki khi tới đây đã bất ngờ gặp được Onoda. Suzuki đã giải thích cho Onoda về tình hình và thuyết phục ông về nước. Tuy nhiên, viên trung úy vẫn nhất định từ chối. Ông nói rằng phải ở lại tiếp tục chiến đấu cho đến khi nhận được lệnh từ cấp trên.
Sau khi Suzuki trở về nước với những bức hình của viên sỹ quan mà nhiều người tưởng đã chết, Chính phủ Nhật đã cử một phái đoàn tới đảo Lubang, trong đó có anh trai của Onoda và Thiếu tá Yoshimi Taniguchi - chỉ huy trực tiếp trước đây của Onoda, người đã phái ông tới làm nhiệm vụ ở Philippines.
Phải đến khi trực tiếp nghe được lệnh đầu hàng từ cấp trên, Onoda mới chính thức kết thúc cuộc chiến mà thực tế đã kết thúc trước đó gần 30 năm. Ngày 11/3/1974, tại dinh Tổng thống Philippines ở Manila, Onoda - lúc đó 52 tuổi - trong bộ quân phục Thiên hoàng cũ và cả giày mũ vẫn được bảo quản tốt đã trao thanh kiếm mà ông vẫn luôn mang theo bên mình cho Tổng thống Philippines khi đó là ông Ferdinand Marcos như cử chỉ thể hiện sự chính thức đầu hàng.
Nhà lãnh đạo Philippines đã trả lại cho ông Onoda thanh kiếm và tuyên bố ân xá cho ông về những tội danh mà ông đã gây ra ở Philippines trong quá khứ. Onoda là người cuối cùng trong nhiều cựu binh Thiên hoàng lẩn trốn ở châu Á sau Thế chiến II.
Ninja cuối cùng?
Câu chuyện về sự đầu hàng của người lính Nhật nhanh chóng trở thành đề tài thu hút sự chú ý của đông đảo người dân thế giới. Nhiều người cho rằng Onoda là một kẻ cuồng tín, cực đoan và cố chấp, thậm chí là điên khùng. Nhưng ngược lại, nhiều người lại xem ông là biểu tượng cho tinh thần bất khuất và tuyệt đối trung thành của người lính Nhật.
Đại sứ Nhật Bản tại Philippines lúc đó đã gọi Onoda là “mẫu mực của người lính Nhật”. Trả lời câu hỏi của báo chí về 30 năm ẩn nấp trong rừng, Onoda cho biết ông không hề ân hận về điều này bởi ông đã thực thi đúng mệnh lệnh được giao.
Ông Hiroo Onoda ra đầu hàng. |
Trong cuộc phỏng vấn của hãng truyền hình Mỹ ABC, Onoda cũng nói rằng: “Mỗi người lính Nhật đều sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đất nước. Nhưng là một sĩ quan tình báo, tôi đã được lệnh tiến hành cuộc chiến tranh du kích và không được chết”.
Khi trở về nước, Onoda vẫn được chào đón như một vị anh hùng, trở thành nhân vật được nhiều người ngưỡng mộ.
Tuy nhiên, khi trở về từ rừng xanh, Onoda lại rơi vào bi kịch thời hậu chiến. Nước Nhật khi ông quay trở về không còn bom đạn nhưng lại đã thay đổi quá nhiều so với ngày ông ra đi. Nước Nhật khi đó giống như một thế giới tương lai mà ông chưa bao giờ có thể tưởng tượng được, với những tòa nhà chọc trời, truyền hình, máy bay phản lực, ô nhiễm và cả hậu quả của vụ đánh bom nguyên tử. Vòng quay của xã hội diễn ra một cách chóng mặt, khiến Onoda giống như một người rừng lạc lõng giữa phố thị.
Nhận thấy quá khó khăn để hội nhập thực tiễn mới, 1 năm sau ngày quay lại Nhật Bản, Onoda đã di dân sang Brazil. Sau khi tìm được một khu vực có nhiều gia đình người Nhật sinh sống ở Campo Grande, thủ phủ của bang Mato Grosso do Sul, ông đã quyết định neo lại đây và mở một trang trại nuôi gia súc.
Năm 1976, ông kết hôn. Kể từ khi di cư, Onoda vẫn tích cực đi lại giữa Nhật Bản và Brazil. Đến năm 1984, ông thành lập ở miền bắc Nhật Bản một trại thanh niên dạy cho người trẻ các kỹ thuật mưu sinh thoát hiểm mà ông đã sử dụng trong 30 năm ẩn trốn trong rừng sâu. Khóa học này thu hút khá đông người tham gia, trong đó có nhiều người đến học vì ngưỡng mộ câu chuyện của ông. Họ gọi ông bằng biệt hiệu đầy trìu mến “Ông chú rừng xanh”.
Về phía phụ huynh, họ cho con đến học vì muốn chúng có được những trải nghiệm khác biệt so với cuộc sống bao bọc thường xuyên của cha mẹ. “Quá sạch sẽ và vững chắc sẽ làm cho bọn trẻ yếu đi”, Onoda nói khi thuyết phục các bậc cha mẹ đồng ý để con em họ được dầm mưa hay vui đùa trên đất cát bẩn.
Năm 1996, Onoda đã về thăm lại đảo Lubang theo lời mời của chính quyền địa phương. Gặp lại cựu binh già người Nhật sau hơn 20 năm, người dân Philippines đã xí xóa cho ông mọi chuyện, bao gồm cả chuyện ông từng giết chết và làm bị thương mấy chục người địa phương trong suốt 30 năm “cố thủ” trong rừng. Như một sự chuộc lỗi, Onoda đã tặng cho cộng đồng địa phương một khoản tiền để lập một học bổng.
Đến tháng 1/2014, ông Onoda qua đời vì bệnh tim tại một bệnh viện ở Tokyo. Khi thông tin về cái chết của ông, tờ Time dựa trên thông tin mà nhà chuyên viết sử về các ninja John Man đưa ra trong cuốn sách “Ninja: 1.000 năm chiến binh bóng tối tới Onoda” giật tít “Ninja cuối cùng đã qua đời”.
Theo cuốn sách, Trường tình báo Nakano chính là một cơ sở đào tạo ninja hiện đại. Bởi, tại đây, các sỹ quan Nhật sẽ được đào tạo chiến thuật di chuyển một cách bí ẩn cùng các kỹ năng hóa thân, yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ bằng mọi giá…
“Trường Nakano đào tạo đến 11 kỹ năng như tôi luyện tinh thần, chiến đấu không có vũ khí, kiếm thuật, kỹ thuật sử dụng thuốc nổ và lửa, kỹ năng ngụy trang và mạo danh, các phương pháp ẩn thân và xâm nhập vào cơ sở của kẻ địch, trốn thoát, do thám… Những điểm chung giữa việc đào tạo ninja truyền thống và đào tạo của trường Nakano đủ để gọi những người học ở trường đó là các ninja. Họ đều có chung sự trung thành, tính bí mật, tinh thần trách nhiệm”, nhà sử học Man viết.
Với Onoda, ông Man cho rằng chính những kỹ năng chiến đấu và sinh tồn của các ninja đã được học ở trường Nakano đã giúp ông có thể ẩn nấp và sống sót suốt 30 năm trong rừng già.