Tòa Dân sự - TANDTC vừa xét xử tái thẩm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn Lê Thị Mỹ và các bị đơn Nguyễn Xuân Phong, Trần Thị Lan và quyết định hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm. Trước đó, PLVN đã phản ánh về vụ kỳ án này, sau đó Chánh án TANDTC đã ký Quyết định kháng nghị tái thẩm. Vụ án oan sai này cần kết thúc thế nào cho đúng pháp luật?
Ông Phong đang chờ vụ án oan sai được chấm dứt |
Hủy cả hai bản án
Năm 1989, bà Mỹ nhờ ông Quang mua giúp 2 ha đất với giá 320.000 đồng và đưa cho ông Quang 100.000 đồng thuê cày đất và mua cây tràm giống. Do bà Mỹ không thanh toán đủ chi phí nên tháng 1/1991 ông Quang sang nhượng đất cho vợ chồng ông Phong, bà Lan. Vợ chồng ông Phong, bà Lan đã cải tạo diện tích đất này để trồng cao su. Ngày 19/5/1992, tại VKSND huyện Long Thành, ông Quang đồng ý trả cho bà Mỹ số tiền mua đất, tiền cày cấy, cây giống, tổng cộng là 5,7 chỉ vàng; bà Mỹ chấp nhận cho ông Quang trả dần trong vòng 1 năm. Biên bản hòa giải thành được lập có chữ ký các bên.
Nhưng do hơn 4 năm mà ông Quang không trả số vàng đã thỏa thuận nên bà Mỹ khởi kiện vợ chồng ông Phong, bà Lan. TAND tỉnh Đồng Nai xét xử và ra Bản án Dân sự phúc thẩm số 152/DSPT ngày 28/11/2002 buộc ông Phong, bà Lan trả cho bà Mỹ giá trị 2ha đất là 900 triệu đồng. Bản án không thể thi hành được, do bị đơn khiếu nại quyết liệt và Quốc hội quan tâm, giám sát chặt chẽ: Ủy ban Pháp luật Quốc hội khóa XI và khóa XII Ủy ban Tư pháp Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai…nhiều lần có công văn đề nghị Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị bản án… Nhiều cơ quan báo chí trong đó có PLVN nhiều lần phản ánh nội dung vụ án oan sai này.
Ngày 11/10/2012, Chánh án TANDTC đã kháng nghị tái thẩm Bản án dân sự phúc thẩm số 152/DSPT ngày 28/11/2002 của TAND tỉnh Đồng Nai. Căn cứ kháng nghị tái thẩm của Chánh án TANDTC được chấp nhận trong Quyết định tái thẩm nêu rõ: “Năm 1999, bà Mỹ khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu vợ chồng ông Phong, bà Lan trả lại diện tích đất. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm căn cứ vào thỏa thuận chuyển nhượng đất giữa ông Quang và vợ chồng bà Mỹ, thực tế sử dụng đất và vợ chồng ông Phong, bà Lan đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để công nhận cho vợ chồng ông Phong bà Lan có quyền sử dụng đất, đồng thời buộc vợ chồng ông Phong, bà Lan phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho bà Mỹ là không đúng quy định của pháp luật vì vợ chồng bà Lan đã thanh toán tiền sử dụng đất cho ông Quang.
Tại biên bản làm việc ngày 30/8/2012, đại diện UBND xã Long Tân và UBND huyện Nhơn Trạch xác nhận do không biết có việc tranh chấp giữa bà Mỹ với vợ chồng ông Quang và vợ chồng ông Phong, cũng như việc VKSND huyện Nhơn Trạch khởi tố ông Quang về hành vi lạm dụng chiếm đoạt tài sản nên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang tranh chấp cho bà Lan là không đúng”.
Vì những lẽ trên, Hội đồng đã hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm số 152/DSPT ngày 28/11/2002 của TAND tỉnh Đồng Nai và hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 58/DSST của TAND huyện Nhơn Trạch giữa nguyên đơn Lê Thị Mỹ, bị đơn Nguyễn Xuân Phong, Trần Thị Lan và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thanh Quang. Giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Nhơn Trạch xét xử sơ thẩm lại cho đúng quy định của pháp luật.
Căn cứ tái thẩm chưa đầy đủ
Dư luận rất hoan nghênh quyết định kháng nghị tái thẩm của Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình và Quyết định Tái thẩm của Tòa Dân sự TANDTC là rất cần thiết, nhằm khắc phục một vụ án oan sai kéo dài nhiều năm, được nhiều vị lãnh đạo quan tâm, nhiều đại biểu Quốc hội, rồi Đoàn đại biểu Quốc hội Đồng Nai và báo chí lên tiếng suốt nhiều năm qua.
Tuy nhiên, nhiều luật sư cho rằng căn cứ kháng nghị tái thẩm và quyết định tái thẩm nêu trên chưa đầy đủ, còn thiếu căn cứ mấu chốt của vụ án, đó là năm 1992, bà Mỹ yêu cầu VKSND huyện Long Thành giải quyết. Ngày 19/5/1992, tại VKSND huyện Long Thành, Kiểm sát viên đã mời bà Mỹ, ông Quang và vợ chồng ông Phong, bà Lan đến hòa giải. Tại đây, ông Quang đồng ý trả cho bà Mỹ số tiền mua đất, tiền cày cấy, cây giống, tổng cộng là 5,7 chỉ vàng; bà Mỹ đồng ý cho ông Quang trả dần trong vòng 1 năm. Biên bản hòa giải thành được lập có chữ ký các bên.
Như vậy, vụ việc đã được giải quyết dứt điểm tại một trong các cơ quan tố tụng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.Vì vậy, 5 năm sau, ngày 19/4/1997, UBND huyện Nhơn Trạch đã cấp sổ đỏ cho vợ chồng ông Phong, bà Lan đối với 2 ha đất này. Do đó, một vụ việc không thể được giải quyết hai lần, nên Tòa án địa phương thụ lý đơn khởi kiện của bà Mỹ tranh chấp quyền sử dụng đất với vợ chồng ông Phong là không có căn cứ.
Chính quyền địa phương nói không biết việc ông Quang bị khởi tố về hành vi lạm dụng tín nhiệm tài sản, nên cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lan là sai, nhận định này rất nhầm lẫn. Việc ông Quang bị khởi tố về một hành vi dân sự, sau đó VKS phải rút quyết định là khởi tố oan, lỗi thuộc về VKS. Do đó, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lan là hoàn toàn đúng pháp luật và thực tế không có ai khiếu nại tranh chấp về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này.
“Quyết định tái thẩm giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Nhơn Trạch xét xử sơ thẩm lại cho đúng quy định của pháp luật, nhưng bà Mỹ không đủ tư cách nguyên đơn để khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Phong, bà Lan. Ông Phong, bà Lan cũng không có liên quan gì đến bà Mỹ nên nếu Tòa án Nhơn Trạch lại thụ lý thì không đúng pháp luật. Như Công văn 181 ngày 28/4/2006 do Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai Lê Hồng Phương ký gửi Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC kiến nghị Giám đốc thẩm Bản án số 152/DSPT ngày 28/11/2002 của TAND tỉnh Đồng Nai cũng đã nhận định “có sai lầm nghiêm trọng” trong việc xác định tư cách người tham gia tố tụng của người được Tòa coi là bị đơn, từ đó bản án đưa ra quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan gây thiệt hại cho bà Lan… Do đó, Tòa không thể thụ lý và giải quyết lặp lại cái sai của 10 năm trước”, một luật sư nhận định. |
Trương Nghĩa