Cụ thể, ngày 11/02/2020, Chi cục THADS huyện Hương Khê đã báo cáo Ban chỉ đạo THADS huyện Hương Khê xem xét chỉ đạo. Sau đó, Ban chỉ đạo THADS huyện Hương Khê có chỉ đạo: “Quá trình thi hành án ông Hùng và bà Nga chống đối quyết liệt, kiên quyết không tiếp tục thực hiện hợp đồng để giao lại quyền sử dụng đất cho ông Trâm, bà Hoa; Liên tục có đơn kêu cứu – đề nghị khẩn cấp, yêu cầu hoãn thi hành án, tuyệt mệnh thư, cho rằng Bản án vô cùng oan sai...Tài liệu kèm theo đơn của bà Nga, ông Hùng và Biên bản xác minh của Chi cục THADS huyện cho thấy, Bản án khó thi hành, có dấu hiệu có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật và áp dụng Án lệ. Vì vậy Chi cục THADS huyện chủ trì phối hợp với UBND Thị trấn và các tổ chức đoàn thể, tiếp tục vận động các bên đương sự thỏa thuận tự nguyện thi hành án, nếu không có kết quả thì trưng cầu cơ quan có thẩm quyền và ngành cấp trên nghiên cứu hướng dẫn; Hoặc kiến nghị xem xét lại Bản án nếu có căn cứ”.
Chi cục THADS phối hợp UBND thị trấn Hương Khê tiếp vận động các bên đương sự tự nguyện thỏa thuận về thi hành án, nhưng không có kết quả; Ngày 17/02/2020 Chi cục THADS huyện tham mưu cho Ban chỉ đạo THADS huyện văn bản số 175/BC-BCĐTHADS báo cáo vụ việc thi hành án dân sự có khó khăn vướng mắc đề nghị xem xét, chỉ đạo, kiểm tra, giải quyết gửi Ban chỉ đạo THADS tỉnh, Cục THADS tỉnh, Viện KSND tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh; Nhưng đến ngày 19/4/2020 không có cơ quan nào trả lời.
Vì vậy, ngày 20/4/2020 Chi cục THADS huyện Hương Khê ban hành Văn bản số 222/KN-CCTHADS Kiến nghị xem xét lại Bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, gửi đến Chánh án TAND Cấp cao tại Hà Nội là thực hiện đúng chỉ đạo của Ban chỉ đạo THADS huyện Hương Khê.
Chi cục THADS huyện Hương Khê kiến nghị đến Tòa án nhân dân cấp cao xem xét lại Bản án. Với 5 nội dung được phát hiện thông qua xem xét nội dung trong bản án, kết quả xác minh điều kiện thi hành án của Chấp hành viên, tài liệu do bên được thi hành án (ông Trâm, bà Hoa) nộp trực tiếp cho Chi cục và tài liệu theo các đơn kêu cứu, xin hoãn thi hành án của bên phải thi hành án (ông Hùng, bà Nga) gửi đến.
Một là, Giấy chuyển quyền sử dụng đất của ông Hùng chuyển cho ông Trâm và bà Hoa không chỉ vô hiệu về hình thức, mà còn vi phạm các điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất do pháp luật về đất đai và Bộ luật dân sự.
Hai là, về tài liệu chứng minh bên chuyển nhượng (ông Hùng, bà Nga) đã nhận tiền, có nhiều điểm bất cập: số liệu được các bên (ông Hùng và ông Trâm) thừa nhận chỉ có 46.500.000, đồng trả nợ ngân hàng do ông Hùng nhận và viết giấy chuyển nhượng; và 31 triệu là nợ vay trả lãi của bà Nga và bà Hoa. Trong khi giấy xin chuyển nhượng với giá 90 triệu, Bản án phản ánh đã nhận 96 triệu. Không có tài liệu nào xác định bà Nga vợ ông Hùng đã nhận tiền chuyển nhượng.
Ba là, Áp dụng án lệ không đúng thực tế: Bản án, nêu áp dụng án lệ số 04/2016/AL:…Trường hợp nhà đất là tài sản chung vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong hợp đồng, nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cũng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; Bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý sử dụng nhà đất đó công khai, người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất.
Nhưng Biên bản xác minh ngày 05/12/2019 do ông Hùng, bà Nga, ông Trâm, bà Hoa phản ánh, quá trình sử dụng đất từ khi ký giấy chuyển nhượng ngày 28/5/1998 đến nay do ông Hùng và bà Nga quản lý sử dụng. Mặt khác ông Hùng và bà Nga đang sử dụng công khai, xây dựng 02 ky ốt cho thuê công khai trên đất này (cạnh UBND Thị trấn Hương Khê).
Bốn là, về thời hiệu khởi kiện: Đây là trường hợp tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất; không phải là tranh chấp về quyền sử dụng đất; Như vậy, Giấy chuyển nhượng đất ở của ông Hùng và ông Trâm lập ngày 28/5/1998, đến năm 2019 không còn thời hiệu khởi kiện; thuộc trường hợp đình chỉ theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12.
Năm là, vụ việc tranh chấp này, tại Bản án số 123/2013/HC-PT ngày 10/7/2013 của Tòa phúc thẩm TANDTC và Bản án số 01/2012/HC-ST ngày 22/8/2012 của TAND tỉnh Hà Tĩnh đều có chung nhận định và kết luận: “Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập từ năm 1998 nhưng đến 2001, ông Trâm mới đi làm thủ tục chuyển nhượng. Tại thời điểm này, trình tự thủ tục chuyển nhượng QSDĐ phải thực hiện theo Nghị định 17/1999/NĐ-CP của Chính phủ nhưng hồ sơ chuyển nhượng không tuân thủ theo biểu mẫu đã được quy định theo khoản 1 Điều 10 của Nghị định mà vẫn chấp nhận bản thỏa thuận chuyển QSDĐ được hai bên lập ngày 02/6/1998 (bản ngày 28/5/1998). Mặt khác, trong các bản thỏa thuận này đều có tên của các bà vợ của ông Hùng, ông Trâm là bà Nga, bà Hoa nhưng phần cuối của các bản thỏa thuận này bà Nga, bà Hoa không ký tên, không tuân thủ các quy định của pháp luật nên đã vi phạm cả về nội dung lẫn hình thức của hợp đồng”. Vì vậy Tòa phúc thẩm TANDTC đã tuyên hủy Bản án số 01/2012/HC-ST ngày 22/8/2012 của TAND tỉnh Hà Tĩnh; Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Hà Tĩnh giải quyết lại theo thủ tục chung.
Đến nay, TAND tỉnh lại tuyên tiếp tục thực hiện hợp đồng theo giấy xin chuyển nhượng ngày 28/5/1998, là có mâu thuẫn với nhận định của Tòa cấp trên. Như vậy, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê chưa cuỡng chế thi hành bản án là có cơ sở pháp lý.