Luật sư Trịnh Văn Toàn, trưởng văn phòng luật sư ATK tư vấn:
Theo quy đinh tại Điều 15 Luật Hộ tịch năm 2014: “Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em”.
Nội dung Giấy khai sinh bao gồm các thông tin cơ bản sau: Thông tin của người được đăng ký khai sinh: Họ, chữ đệm và tên; giới tính; ngày, tháng, năm sinh; nơi sinh; quê quán; dân tộc; quốc tịch; Thông tin của cha, mẹ người được đăng ký khai sinh: Họ, chữ đệm và tên; năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư trú; Số định danh cá nhân của người được đăng ký khai sinh.
Trường hợp muốn thay đổi thông tin trong giấy khai sinh cần thực hiện việc cải chính hộ tịch được quy định tại Khoản 2 Điều 7 Nghị định 123/2015/NĐ-CP. Theo đó việc chỉnh sửa thông tin trong bản chính giấy khai sinh chỉ được thực hiện khi có đủ căn cứ để xác định có sai sót do lỗi của công chức làm công tác hộ tịch hoặc của người yêu cầu đăng ký hộ tịch.
Luật sư Toàn hướng dẫn: “Khi phát hiện việc sai sót thông tin trong Giấy khai sinh do lỗi của người yêu cầu đăng ký hộ tịch (bà ngoại) thì gia đình phải nộp tờ khai theo mẫu quy định kèm theo giấy tờ liên quan để chứng minh việc nhầm lẫn như Sổ hộ khẩu, Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của vợ chồng, Chứng minh nhân dân…nhằm làm rõ tên cha, từ đó cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào để làm cơ sở thực hiện việc cải chính”.
Về thời hạn giải quyết: Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ trên, nếu thấy việc yêu cầu cải chính là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành cải chính. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 03 ngày làm việc.
Thẩm quyền cải chính giấy khai sinh thuộc về UBND cấp xã, huyện. Cụ thể, UBND cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi. Còn đối với công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước thì thẩm quyền thuộc về UBND cấp huyện nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú của cá nhân.