Hùng vĩ, thơ mộng Phú Sĩ

Đối với người Nhật Bản, núi Phú Sĩ thể hiện sự uy nghi, tinh thần kiên cường, bất khuất, và là biểu tượng của sự tốt lành. Người Nhật Bản miêu tả núi Phú Sĩ “như chiếc quạt bằng ngọc treo ngược trên bầu trời, tuyết trắng trên núi phản chiếu ánh sáng rực rỡ của mặt trời”. Vì vậy, ai từng đặt chân đến Nhật Bản đều mong muốn một lần được đến tận nơi, chiêm ngưỡng phong cảnh “sơn thủy hữu tình” của núi Phú Sĩ.

Biểu tượng của sự bình yên

 

Xuất phát từ thủ đô Tô-ky-ô, chúng tôi mất gần 3 giờ đi ô-tô mới đến được vùng đất, nơi có ngọn núi Phú Sĩ, biểu tượng sự bình yên của người dân Nhật Bản. Tên núi Phú Sĩ có tự bao giờ, chẳng ai biết. Ngọn núi này từng  phun nham thạch hàng trăm lần. Có tài liệu ghi chép, từ năm 781 đến nay, núi Phú Sĩ phun nham thạch 18 lần. Lần phun gần nhất là năm 1707, tro bụi bám đầy nóc nhà ngoại thành Tô-ky-ô. Sau lần phun lửa đó, núi “ngủ say” cho đến nay.

 

Theo giới thiệu của Thanh Tâm, người dẫn đoàn kiêm phiên dịch, núi Phú Sĩ nằm bên bờ biển phía Đông,  miền nam đảo Benzhou của Nhật Bản, thuộc địa phận hai huyện Jinggang và Sangli, cách thủ đô Tô-ky-ô 80 dặm về phía Đông. Hiện hai huyện này đang tranh chấp “quyền sở hữu”  ngọn núi nổi tiếng. Núi Phú Sĩ là có hình chóp, bốn phía  rất đều đặn cao 3.776 m, diện tích 90,76 km2. Trên đỉnh núi tuyết trắng xóa nhìn thấy tám đỉnh núi chung quanh là Kiếm, Bạch Sơn, Cửu Tu Chí, Đại Nhật, Y Đậu, Thành Tựu, Câu và Tam, được ví như 8 cánh hoa nở hướng lên trời cao. Do đó, núi Phú Sĩ còn được gọi là “Tám cánh phù dung”. Đường kính của miệng núi lửa trên đỉnh Phú Sĩ gần 700 m, sâu khoảng 220 m, hình dáng gần giống cái bát của nhà sư nên được gọi là “Ngự bát”. Quanh núi có hơn 2.000 giống cây, như một khu vườn bách thảo. Ở phía bắc chân núi Phú Sĩ có 5 hồ nước trong vắt, giống như những viên ngọc khảm vào thân núi. Đó là các hồ Bản Tây, Tịnh Tiến, Tây, Cửa Sông và Sơn Trung. Hồ Sơn Trung lớn nhất, có diện tích 6,75 km2. Phía Đông Nam hồ này có 8 ao đầm thông với hồ. Mặt nước hồ Cửa Sông phẳng lặng, in bóng đỉnh núi Phú Sĩ. Về phía Nam núi Phú Sĩ là vùng đồng bằng rộng lớn, có hai thác nước nổi tiếng là thác Bạch Hề và Âm Chỉ. Chung quanh có nhiều công viên, lâm viên để du khách vãn cảnh và săn bắn, thăm bảo tàng tìm hiểu về lịch sử vùng đất và con người. Núi Phú Sĩ không những hùng vĩ tráng lệ mà còn ẩn chứa trong đó phong cảnh kỳ bí, lý thú. Mùa xuân hoa lá xanh tươi, mùa hè nước chảy rì rào, mùa thu lá đỏ phủ khắp núi đồi, mùa đông băng tuyết trắng xóa. Có khi, trong cùng một ngày, thời tiết thay đổi đến vài lần. Khi thì giống như có tấm màn the mỏng che phủ cả ngọn núi, lúc lại mây bao trùm lơ lửng như phiêu diêu nơi miền cực lạc, khi lại hiện ra hùng vĩ dưới bầu trời trong xanh.

 

Lướt sóng hồ Sơn Trung, thưởng thức phở Nhật Bản

 

Có lẽ chúng tôi chưa có cơ duyên để được leo lên đỉnh núi ngắm nhìn toàn cảnh thành phố Tô-ky-ô, bởi hôm đó, trời âm u. Nhưng dường như trời chiều lòng người nên trong khoảng 5 phút, bỗng trời quang  mây hé, chúng tôi được ngắm đỉnh núi Phú Sĩ từ trên ô-tô. Đó là khoảnh khắc duy nhất. Trời âm u trở lại. Hơn nữa thời gian quá ngắn ngủi, bởi muốn leo lên đỉnh, chinh phục ngọn núi này, mọi người phải đi từ chiều hôm trước, ngủ lại các nhà trọ ở chân núi để sáng hôm sau bắt đầu hành trình chinh phục đỉnh cao. Theo hướng dẫn viên Thanh Tâm, mỗi năm nơi đây thu hút khoảng 200 nghìn du khách đến chinh phục núi Phú Sĩ, trong đó khoảng 30% là người nước ngoài. Tuy nhiên, khoảng thời gian đẹp nhất để leo lên tới đỉnh ngắm những cảnh vật tuyệt vời là tháng 7 và 8 trong năm.

 

Ô-tô dừng trước hồ Sơn Trung. Các xe mua vé, tự giác tìm nơi đỗ theo quy định, quy củ. Không cần người hướng dẫn. Trong các khu du lịch có rất ít nhà hàng bán đồ ăn nên không có cảnh chèo kéo khách. Không có cơ hội được chinh phục đỉnh cao, chúng tôi đi xuồng cao tốc, lướt sóng trên hồ Sơn Trung, ngắm cảnh. Nước hồ trong xanh vời vợi. Bốn mặt đều là núi, phủ màu xanh đến ngút ngàn, tạo cho mọi người cảm giác bình yên, thanh tịnh trong tâm hồn. Đúng là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng. Chiếc xuồng máy lướt sóng bồng bềnh tạo cảm giác khoan khoái. Mỗi xuồng chỉ được phép chở 6 người, nai nịt gọn gàng. Lái xuồng là người trung niên, khá thân thiện và cởi mở. Thi thoảng, ông tăng tốc lao xuồng đi khá nhanh và lạng lách khá điệu nghệ. Không chỉ có “tay lái lụa”, họ còn khá am hiểu và giới thiệu về phong cảnh nơi đây.

 

Hơn 12 giờ, chúng tôi rời hồ Sơn Trung trở về Tô-ky-ô. Trước khi ra về, mọi người rẽ vào quán ăn bên đường, thưởng thức món phở Nhật Bản. Món ăn khá cầu kỳ, chứa trong chiếc nồi đất lớn. Từng cọng phở lớn bằng ngón tay được làm bằng bột mì pha bột gạo. Nói là phở, nhưng trong nồi chỉ có duy nhất một củ khoai sọ, một ít rau giá đậu xanh Hà Lan và nấm. Nước phở thơm, nhưng hơi ngọt vị đường. Mặc dù rất đói, nhưng các thành viên trong đoàn không ai có thể dùng hết vì “bát phở” quá lớn, lại không hợp khẩu vị.

 

Trên đường trở về, không khí kém rôm rả như lúc đi. Mọi người như miên man với suy nghĩ về cảnh đẹp thiên nhiên của Nhật Bản. Nhưng càng cảm phục hơn đó là sự thân thiện, cởi mở, ý thức của mỗi người dân trong việc bảo vệ, nâng tầm các di sản thiên nhiên, văn hóa, lịch sử để gìn giữ cho muôn thế hệ mai sau. Một số người thiu thiu ngủ. Anh Đức Đồng, giám đốc Công ty cổ phần xây dựng số 9 - "cây văn nghệ"- khe khẽ hát bài "Mùa xuân sang có hoa anh đào".

 

Ghi chép của Hoàng Dũng