Hơn cả nguồn nước!

Giữa mùa xuân 1977, một cuộc họp giữa Tỉnh ủy, UBND Quảng Nam-Đà Nẵng và Bộ Thủy lợi nhất trí phải sớm triển khai thi công công trình đại thủy nông Phú Ninh, Bộ đảm nhận thi công công trình đầu mối, tỉnh thi công công trình kênh mương. Một công trình cần một triệu ngày công để đào đắp 8 triệu mét khối đất đá. Cần đến 1.560 chuyến xe tải, đắp tạm một con đường dài 2 cây số rưỡi, dời 30.000 ngôi mộ, dọn hơn 2.147 hecta cây, bụi cây làm sạch lòng hồ rộng trên 32 cây số vuông...

Giữa mùa xuân 1977, một cuộc họp giữa Tỉnh ủy, UBND Quảng Nam-Đà Nẵng và Bộ Thủy lợi nhất trí phải sớm triển khai thi công công trình đại thủy nông Phú Ninh, Bộ đảm nhận thi công công trình đầu mối, tỉnh thi công công trình kênh mương. Một công trình cần một triệu ngày công để đào đắp 8 triệu mét khối đất đá. Cần đến 1.560 chuyến xe tải, đắp tạm một con đường dài 2 cây số rưỡi, dời 30.000 ngôi mộ, dọn hơn 2.147 hecta cây, bụi cây làm sạch lòng hồ rộng trên 32 cây số vuông...

Ngày 25-3-1977, Chính phủ chuẩn y dự án công trình, thì 4 ngày sau, ngày 29-3-1977, kỷ niệm 2 năm Ngày giải phóng quê hương, tỉnh làm lễ phát lệnh khởi công với hai mươi chín phát mìn nổ vang dội núi đồi Tư Yên, Chóp Chài, Đá Đen, Yên Thành...

Khi tuyên truyền giải thích cái lợi của "Đại thủy nông Phú Ninh" thì ai cũng thấy hồ hởi, đến khi xáp vào "di dời" hơn 7.000 dân, tức hơn 1.560 hộ dân ra khỏi lòng hồ thì vấp không biết bao nhiêu là chướng ngại, gai góc.

Cuộc vận động quần chúng lần này cũng gay go, từ vận động chung đến vận động từng đợt, từng xã, từng gia đình, rồi từng người. Những năm đen tối sau năm 1954, các anh về dựa vào vùng bán sơn địa này, được bà con không sợ tù đày mà giấu, nuôi cơm. Hồi địch đánh phá ác liệt, xúc tát dân đi thì các anh khuyên bà con "một tấc không đi, một ly không rời". Bà con liều sống với bom đạn, mặc cho hù dọa, về làng trụ bám, trồng khoai, cấy lúa. Hòa bình lập lại, bà con đang ra sức khai hoang, phục hóa, phá gỡ bom mìn, dọn vườn, làm nhà, cuộc sống đang từng ngày phục hồi thì các anh đến bảo dỡ nhà đi... Quen sống với ruộng lúa, vườn cây, chừ bỏ hết, cả mồ mả cha ông, lên núi thì "đi răng cho đành"?

Gia đình ông Hường ở Đức Phú có 5 người con trai hy sinh hết, xã phát động hai vợ chồng già không chịu đi. Gia đình bà Loát (tức bà Lượng) là dân bám trụ kiên cường, nhà bà Nghệ có em là Lê Khoảng từng bảo vệ cơ quan Huyện ủy Tam Kỳ, bà Nguyên (Năm Kiền) từng chạy giặc Tây vào Tứ Mỹ ở, không yên, chạy lên tận xã Zút... Gia đình nào cũng lo đi rồi sống sao đây? Sau khi giải quyết tư tưởng, ông Hường thấy thông, xách gói đi, sau đó gia đình bà Loát, bà Nghệ, ông Tịnh, ông Khoảng... gồng gánh lên đường theo chân ông Hường...

Huyện Tam Kỳ (bao gồm Phú Ninh và Núi Thành) huy động được 57 ô-tô chở mấy ngày liền đưa bà con lên... núi.

Còn, hàng chục ngàn lao động lên với công trường thì ai lo?

Ty Lương thực lo chạy gạo, Ty Tài chính lo chạy tiền, Công ty Vật tư chạy tranh tre, cát, sạn, dụng cụ lao động... cho công trường, tất cả đều phải cật lực chạy đua với thời gian cho kịp ngày phát lệnh khởi công: 29-3-1977.

Trung đoàn xung kích 977 mới thành lập đưa quân đến Phú Ninh sớm nhất làm lán trại dưới chân đèo Tư Yên thôi thúc các đơn vị bạn. Ở đây, nhìn thấy hòn Chóp Chài - nơi, năm 1964, quân giải phóng đánh tiêu diệt cứ điểm chốt trên đỉnh núi này. 10 năm sau, mùa xuân 1974, quân ta giải phóng Đức Phú, phá vỡ phòng tuyến phía Tây tỉnh lỵ Quảng Tín, mở ra một hành lang đưa cơ giới, xe, pháo cho Chiến dịch mùa Xuân năm 1975.

Tỉnh giao cho thành phố Đà Nẵng huy động đưa 3.000 quân lên công trường. Quân của quận Nhất đến sớm, đón nhận ngay tinh thần mà đồng chí Nguyễn Hà, chỉ huy trực tiếp tại công trường cho biết, Công ty Vật tư chưa thể cung cấp kịp tranh tre để làm nhà, quận tự xoay xở thì rất hoan nghênh! Ông Trần Bắc (Trần Hưng Thừa), Bí thư; ông Trương Chí Thanh, Chủ tịch quận Nhất - quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng (nay là quận Hải Châu) lên tận công trường để chỉ đạo, kịp thời khắc phục những khó khăn, yêu cầu xuất hiện.

Sau khi Ban Thường vụ Quận ủy họp bàn, lập tức tất cả cán bộ quận, cán bộ 12 phường của quận Nhất được phân công, cùng Ban Chỉ huy quận ra quân đi ngay xuống các phường vận động bà con ủng hộ tre, tôn, vận động thanh niên, tìm vật liệu, dụng cụ, chạy cả tiền và gạo, không chờ Ty Tài chính rót! Tiếp theo, các quận Nhì, quận Ba, huyện Hòa Vang tiếp tục dồn sức cho công trường Phú Ninh.

Thử tưởng tượng, huy động người, mà rất nhiều là thanh niên hư, là gái làm tiền thất nghiệp, là thanh niên nghiện xì ke không có chất hít, là ăn cắp, bụi đời... đã vô cùng khó rồi, vậy mà phải huy động tre giữa Đà Nẵng thì khó hơn... huy động tiền và gạo. Khi nhận tre thì có tre tươi (vùng bàu Thạc Gián), tre đã làm giàn bí, tre đã nằm trên nhà. Còn tôn thì đủ loại, ngắn có, dài có, tấm mới, tấm cũ. Tất cả là tấm lòng của bà con Đà Nẵng với công trình thủy nông Phú Ninh!

Những ngày đầu, sau cuộc vận động, một số thanh niên nam nữ tuổi trên dưới đôi mươi, lần lượt tập trung về điểm tập kết, lúc đầu vài ba chục, sau mấy ngày tăng lên con số trăm. Đó là những thanh niên sau ngày giải phóng từng xung phong đi lao động khai hoang ở Ba Viên-sông Trường Định, đào gánh đất, bùn, xúc rác rưởi ở công trường hầm bứa sau này là Công viên 29-3. Những thanh niên Đà Nẵng tập hợp thành tiểu đội, trung đội theo nhau tiến lên xóm làng của Tam Dân, Tam Thái, Cẩm Khê-Phú Ninh, cùng với họ là những chiếc ô-tô tải nặng trĩu tôn và tre. Những ngày tiếp theo, những chiếc xe chở quà của Hội Phụ nữ cho riêng chị em và thực phẩm của bà con tiểu thương cho Bê hai Đà Nẵng...

Có tranh tre, tôn, những lán trại nhanh chóng được dựng lên kịp có chỗ cho quân của các B (trung đội) lên trú tạm, không đủ chỗ, quân ở nhờ nhà dân, những ngôi nhà tranh, vách đất, nhưng với những tấm lòng rộng mở, chân tình đã che chở, động viên anh em vừa rời xa thành phố, nhiều người chưa một lần đụng đến cái cuốc, cái xẻng, cái xe cải tiến. Các Ban quản lý các B lo ổn định chỗ ở, lo cái ăn cho đủ no, ngoài hàng hóa và vật dụng thiết yếu ít ỏi do Công ty Thương nghiệp phục vụ tận công trường cũng phải chạy mua thức ăn dù thức ăn chính là rau, muối mắm và canh, từ chợ Cây Sanh ở gần, chợ Tam Kỳ ở xa gần bảy cây số, mỗi ngày lên giá theo số quân tăng lên trên công trường nắng nóng, đất bụi mù.

Và, công tác tư tưởng, một nhiệm vụ nặng nề, thường xuyên mà các cán bộ Đoàn Thanh niên hết sức lo để giữ anh chị em ở lại với công trường, để anh chị em phấn đấu hoàn thành từng đoạn kênh với chất lượng được Ban nghiệm thu OK!

Công ty Xây dựng Thủy lợi 3-đơn vị xây hồ Kẻ Gỗ-Nghệ Tĩnh được Bộ giao thi công công trình đầu mối. Trung đoàn xung kích 977 nhận đoạn kênh dài 1.800 mét, rộng gần 20 mét từ đầu mối, tiếp theo đoạn kênh dài trên 50 cây số cánh Bắc, được phân cho quân các B của Tam Kỳ, quận Nhất, quận Nhì, quận Ba, các huyện Thăng Bình, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hòa Vang...

Ngày nay đi qua những đoạn kênh dài, rộng như con suối, nước trong xanh, mấy ai biết những ngày đầu tiên ấy, các chàng trai, cô gái đã đổ mồ hôi đào cuốc đất, đào những lớp đất cát pha bạc màu gặp những vỉa đá da trâu ương ngạnh, người ta gọi là đá gốc, làm sứt cả mũi đục thép cứng, làm cong cả xà-beng, gặp những đoạn sình lầy, bùn nhão lút tận bắp vế...

Con đập nối núi Yên Thành và núi Đá Đen là con đập chính dài 561 mét, cao 39 mét, chặn dòng nước sông Tam Kỳ, tích tụ 370 triệu mét khối nước, tưới trên 20 nghìn hecta lúa của những đồng đất khô cằn của Tam Kỳ, Thăng Bình, Quế Sơn và một ít cho Duy Xuyên, đưa những cánh đồng một vụ lúa năng suất thấp, bấp bênh, tăng lên hai vụ, ba vụ, năng suất 4 tấn, 5 tấn/ hecta...

Với tôi, Phú Ninh hơn cả nguồn nước!

Con đập đã hơn 30 năm sừng sững với nắng nóng mưa dầm, vẫn đứng vững như núi đá sau những trận đại hồng thủy nhận chìm các thôn làng của Quảng Nam. Giữa những ngày tháng Ba lịch sử này, leo lên bờ đập chính nhìn ngắm xung quanh, lòng rộn vui. Nhìn mặt hồ trong xanh, lộng gió, biết dưới lòng nước sâu là đất của ba xã Tam Sơn, Tam Lãnh, Tam Trà, bỗng nhớ những người dân từng sinh sống ở đây đã rưng rưng, lặng lẽ rời làng ra đi. Nhớ đến những chiến sĩ giải phóng năm xưa như Sáu Bạc, Tư Để, Bảy Truyền, Mười Chấp... và biết bao người trung kiên, anh dũng, gan dạ... những con người rồi sẽ "không còn ai nhớ nữa". Cùng với họ là công lao, xương máu, những trận chiến đấu tử sinh... sẽ như tên đất, tên sông, như Ba Kỳ, Tư Yên, Long Sơn, Ngọc Nha, Trường Cửu... Tất cả chỉ còn là kỷ niệm, là tình yêu, nỗi nhớ. May chăng, chỉ còn lại trong các trang sử, trang văn.

Nhớ những con người, ngay sau những ngày bận rộn của mùa Xuân lịch sử 1975, chưa kịp phủi bụi chiến trường trên lớp áo màu tro còn sờn vai, tổ chức đưa hết mấy chục vạn dân bị dồn vào thành phố trở về làng cũ, lo cứu đói khi trong kho không có gạo, lo đau khi thuốc men có quá ít , lo tổ chức khai hoang, phục hóa, phá gỡ bom mìn lấy đất cho sản xuất. Rồi cải tạo những người cầm súng đánh thuê cho giặc, giáo dục, cải tạo gái làm tiền, trai lưu manh, các vị liền lao ngay lên trên đèo Tư Yên, lội xuống sông Ba Kỳ, khảo sát, thiết kế, kêu gọi, động viên toàn dân trong tỉnh dù ăn chưa đủ no, cuộc sống còn nghèo chưa đủ ấm, hãy chung tay góp sức cho công trình Đại thủy nông Phú Ninh. Các ông Hồ Nghinh, Bí thư Tỉnh ủy; Phạm Đức Nam, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng; Trần Hưng Thừa, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng... đã lần lượt từ biệt mảnh đất thân yêu này... rồi người sau chỉ còn nhớ đến các ông như nhớ đến những chiến dịch "khai hoang, phục hóa", "phá gỡ bom mìn", như "lúa Xuân hè"... Và, những chàng trai, cô gái trẻ trung, nhiều người xung phong đến Phú Ninh với tấm lòng đầy nhiệt huyết, nhiều người đến vì nghĩa vụ thúc ép, và những người dùng dằng bỏ lại một quá khứ buồn, quyết rèn luyện bản thân tại Đại học công trường gian khổ Phú Ninh, làm lại cuộc đời... Tất cả họ đã đội nắng, ăn không bữa nào thấy no, nằm dưới sương đêm nhớ nhà đến khóc... nhiều người muốn trốn trại, chạy về với phố nghèo, kiệt hẻm của quận Nhất, quận Nhì, quận Ba, đã có một lần nào trở lại với biển nước Phú Ninh trong xanh, dạo chơi dưới khu rừng đầu nguồn mát rượi, đi qua những cánh đồng lúa xanh thơm lòng ngỡ ngàng mừng vui trước một hiện thực tuyệt vời mà ngày ấy là ước mơ tưởng chừng như vô cùng lãng mạn. Bây giờ, họ đang sinh sống ở đâu, làm gì...

Leo lên điểm cao đèo Tư Yên, nhìn xa xa trong mờ sương là nhà máy, xí nghiệp, những con đường thảm nhựa, người người, xe cộ. Những mảng màu xanh nối tiếp nhấp nhô. Trong xanh thẳm của rừng cây, của núi, có màu của nước - một biển nước Phú Ninh bát ngát, xanh trong giữa trập trùng núi, nước bao quanh những đảo nhỏ gợi lên bao cảm xúc, ước mơ.

Ai mà không nhớ, ai mà dám quên những người của hôm qua, những ngày đã qua! Làm sao có thể hình dung hết những gì đã xảy ra trên đất này, nếu không có dịp nghe ai đó kể lại rằng: Nơi ấy, 35 năm trước...

Ký của Hồ Duy Lệ