Học lại bài báo “Dân vận” của Bác Hồ
Kỷ niệm 60 năm Bác Hồ viết bài báo “Dân vận”, nghiên cứu lại tư tưởng dân vận của Người và liên hệ tình hình thực tế trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động, chúng ta càng thấy rõ giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn cho công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới. Nhân dịp kỷ niệm 79 năm Ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng, kỷ niệm 60 năm Bác Hồ viết bài báo “Dân vận” và 40 năm thực hiện Di chúc của Người, Báo Đà Nẵng giới thiệu bài viết của đồng chí Lê Tự Cường, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Trưởng ban Dân vận Thành ủy về những vấn đề của bài báo trong giai đoạn hiện nay.
Kỷ niệm 60 năm Bác Hồ viết bài báo “Dân vận”, nghiên cứu lại tư tưởng dân vận của Người và liên hệ tình hình thực tế trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động, chúng ta càng thấy rõ giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn cho công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới. Nhân dịp kỷ niệm 79 năm Ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng, kỷ niệm 60 năm Bác Hồ viết bài báo “Dân vận” và 40 năm thực hiện Di chúc của Người, Báo Đà Nẵng giới thiệu bài viết của đồng chí Lê Tự Cường, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Trưởng ban Dân vận Thành ủy về những vấn đề của bài báo trong giai đoạn hiện nay.
Mở đầu bài báo, Bác viết: “Vấn đề dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng cho nên cần phải nhắc lại”. Nhớ lại thời điểm ra đời bài báo, thời điểm mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta ở vào giai đoạn vô cùng gay go quyết liệt, công tác vận động quần chúng của Đảng phải đi vào chiều sâu để động viên tối đa sức người, sức của cho kháng chiến.
Mỗi cán bộ, đảng viên lúc đó ai không làm tốt công tác dân vận thì không những không thể hoàn thành nhiệm vụ mà còn có nguy cơ không bảo toàn được tính mạng của mình; vậy mà vẫn có “nhiều địa phương, nhiều cán bộ không hiểu thấu”. Huống chi ngày nay, nhiều cán bộ, đảng viên đã có quyền quyết định mọi lĩnh vực trong xã hội liên quan đến đời sống của nhân dân. Cho nên mặc dù 60 năm đã qua, bài báo “Dân vận” của Bác vẫn còn nguyên giá trị thời sự.
Đi sâu vào nội dung bài báo, chúng ta thấy Bác Hồ nêu thành 4 phần cụ thể:
Phần I: Nước ta là nước dân chủ. Đây là bản chất của Nhà nước ta. Đây chính là điểm xuất phát và là cái nền của công tác dân vận, đây cũng là mục tiêu phấn đấu suốt đời hoạt động của Bác để xây dựng một Nhà nước tốt đẹp, trong đó người dân thực sự là chủ. Chỉ với 73 chữ được sắp xếp trong bảy câu với lối viết vừa sâu sắc, vừa giản dị, có tính khái quát cao, dễ hiểu, Bác chỉ rõ rằng ở đất nước ta, trong chế độ ta từ chính quyền Nhà nước đến Đảng và các đoàn thể đều có bản chất chung là của dân, do dân và vì dân.
Phần II: Dân vận là gì? Ở đây hiểu theo khái niệm rộng, Bác chỉ ra rằng nội dung dân vận là xây dựng lực lượng từ mỗi một người dân cho đến toàn thể nhân dân để thực hiện mục tiêu cách mạng trong từng thời kỳ và quan tâm đến phương châm cơ bản của công tác dân vận. Ngày nay chúng ta thường nói: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chính là đã đề cập đến tư tưởng dân vận Bác đã nêu trong bài báo. Ở đây còn hàm chứa một tư tưởng lớn của Bác là phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. Chúng ta xây dựng lực lượng từ nhân dân và “không bỏ sót một người dân nào”. Trước đây đã thế, ngày nay và mãi mãi về sau vẫn phải như thế thì sự nghiệp cách mạng của chúng ta mới thành công.
Phần III: Ai phụ trách Dân vận? Bác chỉ rõ “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh… v.v...)”; nghĩa là toàn bộ hệ thống chính trị phải làm dân vận. Nghị quyết 8B (Khóa VI) và các Nghị quyết Đại hội Đảng nâng lên thành quan điểm cơ bản: “Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể”, “Mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên Nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình”.
Trong nội dung này, Bác không đặt vấn đề ai phụ trách chính, ai phụ nhưng không phải vô tình hay ngẫu nhiên, Bác nêu cán bộ chính quyền trước tiên. Nghiên cứu tư tưởng này và liên hệ tình hình thực tế ta càng thấy rõ sự nhìn xa trông rộng của Bác, vì khi Đảng đã là Đảng cầm quyền thì mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đến với nhân dân chủ yếu thông qua bộ máy Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, những người được Đảng phân công phụ trách những phần việc liên quan đến đời sống mọi mặt của nhân dân, thông qua cách hành xử của đội ngũ này người dân sẽ từng bước hình thành nhận thức về bản chất của Đảng, của chế độ.
Một chủ trương sai trong quản lý kinh tế-xã hội, gây thiệt hại cho dân hay thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền với dân thì cho dù Mặt trận, các đoàn thể có vận động đến mấy thì công tác dân vận vẫn kém hiệu quả. Chính vì vậy mà Bác viết: “Cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ và chia công rõ rệt…”.
Những điều Bác viết nêu trên có thể đúc kết thành phương châm tổng quát về công tác dân vận trong điều kiện Đảng cầm quyền. Đó là sự phối hợp đồng bộ, nhất quán giữa quản lý Nhà nước của chính quyền với công tác tuyên truyền vận động quần chúng của các đoàn thể nhằm thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Phần IV: Dân vận phải thế nào? Chủ yếu Bác nói về phong cách làm dân vận. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu phong cách 6 điểm của Bác. “Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
Óc nghĩ, được Bác đặt lên hàng đầu chính là muốn nhấn mạnh vai trò hoạt động trí tuệ của người làm công tác dân vận. Hoạt động dân vận trước hết phải có sự hiểu biết rộng và sâu về nhiều lĩnh vực từ lý luận chính trị, kiến thức lịch sử, văn hóa, tâm lý xã hội, phong tục tập quán… Vì đối tượng quan hệ là mọi thành phần, mọi tầng lớp, mỗi người có trình độ hiểu biết khác nhau, hoàn cảnh, địa vị khác nhau mà sự vật, hiện tượng thì luôn luôn vận động và phát triển. Người cán bộ cách mạng không thể chỉ sao chép khuôn mẫu mà phải không ngừng sáng tạo với tư duy biện chứng tìm ra quy luật vận động để hướng dẫn nhân dân hành động.
Mắt trông, tức là phải quan sát sự vật thật khách quan, muốn vậy phải sâu sát cơ sở, nhìn thấy bản chất của sự vật, không sao chụp lại tình hình một cách bị động, tuyệt đối không được chỉ ngồi nghe điện thoại, đọc báo cáo và viết mệnh lệnh.
Tai nghe, tức là thái độ thật sự cầu thị, phải lắng nghe dân nói, nắm bắt kịp thời thông tin, hiểu được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Mặt khác, không phải chỉ nghe một chiều, nghe điều thuận tai mà phải biết nghe và chịu nghe cả điều nghịch, từ đó mà điều chỉnh chủ trương, chính sách cho đúng.
Chân đi, là một đòi hỏi nghiêm ngặt đối với người làm dân vận. Đây là yêu cầu bức thiết để chống quan liêu hành chính. Như chúng ta đã biết, sinh thời dù rất bận và sức khỏe không được tốt, Bác vẫn dành thời gian đi thăm các nhà máy, xuống các hợp tác xã nông nghiệp và các đơn vị bộ đội để nắm tình hình thực tế. Người đến với nhân dân, bộ đội như về nhà mình, không cờ giong trống mở, không xe đưa xe đón và đặc biệt là không báo trước. Người đến với dân là để hiểu dân hơn, lo cho dân tốt hơn, giúp dân nhiều hơn. Người rất nghiêm khắc với bệnh tô vẽ, thổi phồng, hình thức bề nổi.
Miệng nói, tay làm, là phong cách không thể thiếu của người làm dân vận, là phong cách nhất quán giữa nói và làm. Người cán bộ trước hết phải tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu rằng việc đó là có lợi cho họ và cho xã hội để họ hăng hái làm và phải cùng làm với dân, làm cho kỳ được.
Tiếp sau đó, Bác phê bình “Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận”. Bác chỉ rõ việc xem khinh đó là bố trí cán bộ và cách lãnh đạo công tác dân vận theo kiểu “cử ra một ban hoặc vài người mà thường cán bộ kém rồi bỏ mặc... vận được cũng tốt, mà vận không được cũng mặc”. Những cán bộ khác không trông nom giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm. Bác cho đó là sai lầm rất lớn, rất có hại.
Khái quát lại, Bác viết: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém, Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” . Kết luận đó thực sự là một chân lý.
LÊ TỰ CƯỜNG