Bộ Khoa học – Công nghệ đang xây dựng Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ đến năm 2020. Việc làm này là cần thiết để xác định hướng đầu tư hiệu quả, tránh lãng phí. Nhưng chiến lược dù tốt đến đâu thì việc đầu tiên cũng bắt đầu từ… con người.
Số lượng nhiều nhưng chưa mạnh
Thống kê mới nhất cho thấy, số người có trình độ trên đại học khoảng 30.000, với hơn 13.000 tiến sĩ và khoảng 6.000 giáo sư, phó giáo sư. Với lượng người có học hàm, học vị tính trên trung bình dân số thuộc loại hàng đầu khu vực, chắc chắn xã hội cũng đã đặt ra nhiều kỳ vọng. Nhưng nếu lấy số lượng các công trình khoa học được công bố của Việt Nam so với thế giới giai đoạn 2004-2008 đối với mỗi quốc gia cũng như đối với từng nhà khoa học thì chúng ta còn thua Thái Lan chứ chưa nói đến Ấn Độ, Hàn Quốc.
Ngoài ra, là thực trạng hành chính hóa các chức danh khoa học khi nhà nghiên cứu "rẽ ngang" sang ngạch quản lý nổi lên rất rõ, làm cho nhân lực KHCN đã yếu càng yếu.
Nguyên nhân nào tạo ra sự khác biệt về hiệu quả giữa người làm nghiên cứu của ta và nước bạn? Câu trả lời không khó… "Đó là môi trường làm việc. Môi trường đó gồm 3 yếu tố: điều kiện nghiên cứu; lương và tài trợ đủ để tập trung cho nghiên cứu và chính sách tạo ra động lực của người nghiên cứu", giáo sư Hồ Tú Bảo (Viện KHCN Việt Nam) nhận định.
Bài toán muốn xây dựng được nền KHCN mạnh cũng phải bắt đầu bằng việc tìm lời giải cho ba câu hỏi trên.
Trong khi đó, tiến sĩ Bùi Thiên Sơn (Viện Chiến lược và Chính sách KHCN) cho biết, về cơ chế tài chính, có thể khẳng định rằng các nhà khoa học chưa được tự chủ hoàn toàn trong chi tiêu tiền đề tài hay chương trình nghiên cứu khoa học. Nhiều cơ quan khoa học phải dành 60% tổng lượng thời gian lẽ ra có thể dành thêm cho công tác nghiên cứu, thí nghiệm... để lo thủ tục tài chính, giải trình tiến độ đề tài nghiên cứu.
Nên thay đổi quan điểm đầu tư cho KHCN
Hiện, có quan điểm yêu cầu mọi nghiên cứu đều thành công, phải có kết quả. Những suy nghĩ ấy đã tạo "lực cản" khiến nhà khoa học vì nhiều lý do không thể hết mình cho các công trình nghiên cứu. Trong khi tại các nước phát triển, tỉ lệ nghiên cứu thành công có thể áp dụng vào đời sống chỉ khoảng 10 - 20%.
Chừng nào đánh giá hiệu quả hoạt động khoa học không dựa trên "độ trễ" của kết quả nghiên cứu, mang lại hiệu quả gián tiếp hoặc vô hình như những công trình nghiên cứu về vắc - xin là ví dụ tiêu biểu thì lúc đó còn có những barie vô hình ngăn cản khoa học phát triển.
Theo giáo sư Trần Đức Viên ĐH Nông nghiệp Hà Nội thì điều cần thiết đối với nền KHCN Việt Nam hiện nay là xây dựng được một môi trường làm việc tốt, ở đó nhà khoa học được tự do tư duy, được tôn trọng.
Giáo sư Phạm Hùng Việt (ĐH Quốc gia Hà Nội) đề xuất ý tưởng xây dựng mô hình trung tâm nghiên cứu xuất sắc hay nhóm nghiên cứu tiên tiến. Tại đây sẽ hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, liên ngành, kết hợp lại một cách linh hoạt, được tăng cường trang thiết bị hiện đại nhất để cùng nhau giải quyết một nhiệm vụ KHCN trọng điểm tầm quốc gia, quốc tế và tạo ra những sản phẩm KHCN xuất sắc.
Sở dĩ Việt Nam có thể chọn mô hình "đi tắt đón đầu" các công nghệ cao theo hướng này vì hiện nay chúng ta đã có những phòng thí nghiệm, trung tâm, viện nghiên cứu có năng lực đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Những trung tâm trên cần được đầu tư mạnh về ngân sách để cán bộ ở đó không cần "chân ngoài dài hơn chân trong" mà vẫn có mức thu nhập tốt.
Số lượng nhiều nhưng chưa mạnh
Thống kê mới nhất cho thấy, số người có trình độ trên đại học khoảng 30.000, với hơn 13.000 tiến sĩ và khoảng 6.000 giáo sư, phó giáo sư. Với lượng người có học hàm, học vị tính trên trung bình dân số thuộc loại hàng đầu khu vực, chắc chắn xã hội cũng đã đặt ra nhiều kỳ vọng. Nhưng nếu lấy số lượng các công trình khoa học được công bố của Việt Nam so với thế giới giai đoạn 2004-2008 đối với mỗi quốc gia cũng như đối với từng nhà khoa học thì chúng ta còn thua Thái Lan chứ chưa nói đến Ấn Độ, Hàn Quốc.
Ngoài ra, là thực trạng hành chính hóa các chức danh khoa học khi nhà nghiên cứu "rẽ ngang" sang ngạch quản lý nổi lên rất rõ, làm cho nhân lực KHCN đã yếu càng yếu.
Lực lương nghiên cứu khoa học ở Việt Nam đông nhưng chưa mạnh. |
Nguyên nhân nào tạo ra sự khác biệt về hiệu quả giữa người làm nghiên cứu của ta và nước bạn? Câu trả lời không khó… "Đó là môi trường làm việc. Môi trường đó gồm 3 yếu tố: điều kiện nghiên cứu; lương và tài trợ đủ để tập trung cho nghiên cứu và chính sách tạo ra động lực của người nghiên cứu", giáo sư Hồ Tú Bảo (Viện KHCN Việt Nam) nhận định.
Bài toán muốn xây dựng được nền KHCN mạnh cũng phải bắt đầu bằng việc tìm lời giải cho ba câu hỏi trên.
Trong khi đó, tiến sĩ Bùi Thiên Sơn (Viện Chiến lược và Chính sách KHCN) cho biết, về cơ chế tài chính, có thể khẳng định rằng các nhà khoa học chưa được tự chủ hoàn toàn trong chi tiêu tiền đề tài hay chương trình nghiên cứu khoa học. Nhiều cơ quan khoa học phải dành 60% tổng lượng thời gian lẽ ra có thể dành thêm cho công tác nghiên cứu, thí nghiệm... để lo thủ tục tài chính, giải trình tiến độ đề tài nghiên cứu.
Nên thay đổi quan điểm đầu tư cho KHCN
Hiện, có quan điểm yêu cầu mọi nghiên cứu đều thành công, phải có kết quả. Những suy nghĩ ấy đã tạo "lực cản" khiến nhà khoa học vì nhiều lý do không thể hết mình cho các công trình nghiên cứu. Trong khi tại các nước phát triển, tỉ lệ nghiên cứu thành công có thể áp dụng vào đời sống chỉ khoảng 10 - 20%.
Chừng nào đánh giá hiệu quả hoạt động khoa học không dựa trên "độ trễ" của kết quả nghiên cứu, mang lại hiệu quả gián tiếp hoặc vô hình như những công trình nghiên cứu về vắc - xin là ví dụ tiêu biểu thì lúc đó còn có những barie vô hình ngăn cản khoa học phát triển.
Theo giáo sư Trần Đức Viên ĐH Nông nghiệp Hà Nội thì điều cần thiết đối với nền KHCN Việt Nam hiện nay là xây dựng được một môi trường làm việc tốt, ở đó nhà khoa học được tự do tư duy, được tôn trọng.
Giáo sư Phạm Hùng Việt (ĐH Quốc gia Hà Nội) đề xuất ý tưởng xây dựng mô hình trung tâm nghiên cứu xuất sắc hay nhóm nghiên cứu tiên tiến. Tại đây sẽ hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, liên ngành, kết hợp lại một cách linh hoạt, được tăng cường trang thiết bị hiện đại nhất để cùng nhau giải quyết một nhiệm vụ KHCN trọng điểm tầm quốc gia, quốc tế và tạo ra những sản phẩm KHCN xuất sắc.
Sở dĩ Việt Nam có thể chọn mô hình "đi tắt đón đầu" các công nghệ cao theo hướng này vì hiện nay chúng ta đã có những phòng thí nghiệm, trung tâm, viện nghiên cứu có năng lực đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Những trung tâm trên cần được đầu tư mạnh về ngân sách để cán bộ ở đó không cần "chân ngoài dài hơn chân trong" mà vẫn có mức thu nhập tốt.
Tính trên đầu người thì Việt Nam đã đầu tư tương đương khoảng 5 USD (năm 2007) cho phát triển KHCN, còn Hàn Quốc là khoảng 1000 USD (năm 2007), trong khi Trung Quốc (năm 2004) là khoảng 20 USD. |
Nguồn: Đất Việt