Tranh chấp với vợ hay với Cty?
Trong đơn khởi kiện, ông Nguyễn Việt Tú đề nghị Tòa án xác định mình có quyền sở hữu giá trị hạ tầng trên diện tích đất 848,5m2 tại địa chỉ Khu công cộng 2 (CC2) Khu nhà ở Bắc Linh Đàm (quận Hoàng Mai) và 1/2 giá trị tòa nhà 6 tầng tại địa chỉ trên. Nhà và quyền sử dụng thửa đất kể trên vốn là tài sản của Cty TNHH Đầu tư và Thương mại Mai Ninh (Cty Mai Ninh), do bà Nguyễn Thị Diệu Ninh (vợ ông Tú) làm Giám đốc. Vì ông Tú cho rằng mình là người nộp tiền thuê đất năm 2001. Thời điểm đó, ông Tú và bà Ninh chưa phải là vợ chồng (dù hai người đã con chung vào năm 1995).
Xử sơ thẩm vụ “Tranh chấp đòi tài sản” trên, ngày 4/7/2018, TAND quận Hoàng Mai (Hà Nội) đã có Bản án số 10/2018/DS-ST quyết định: “Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt Tú đối với Cty Mai Ninh. Ông Tú sở hữu giá trị hạ tầng là 1.187.900.000đ trên diện tích đất 848,5m2 tại địa chỉ CC2 Khu nhà ở Bắc Linh Đàm, quận Hoàng Mai… và sở hữu 1/2 giá trị tòa nhà 6 tầng tại địa chỉ CC2 Khu nhà ở Bắc Linh Đàm…”.
Không chấp nhận phán quyết trên, Cty Mai Ninh đã kháng cáo khẳng định Cty đang thực hiện thuê và nộp tiền thuê đất hàng năm với Nhà nước đối với diện tích đất 848,5m2 tại địa chỉ CC2 Khu nhà ở Bắc Linh Đàm. Cụ thể, từ năm 2002 đến năm 2017, tổng số tiền thuê đất Cty đã trả là 2.479.646.294 đ. UBND TP Hà Nội đã có Văn bản 6938/UBND-TNMT (ngày 19/8/2011) đồng ý về nguyên tắc việc hợp thức hóa quyền sử dụng khu đất này cho Cty Mai Ninh.
Ngoài ra, Cty Mai Ninh là doanh nghiệp có hai thành viên góp vốn là bà Nguyễn Thị Diệu Ninh và bà Nguyễn Thị Tuyết Mai. Cty đã trực tiếp thuê đất, trực tiếp đầu tư xây dựng ngôi nhà 6 tầng và đang quản lý, sử dụng. Do đó, đây là tài sản của pháp nhân, không thuộc cá nhân nào.
Ngoài Cty Mai Ninh thì bà Nguyễn Thị Tuyết Mai (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) cũng kháng cáo cho biết, năm 2001, bà và bà Ninh đã cùng thống nhất đầu tư Dự án Trung tâm Thương mại tại khu đất CC2 Bắc Linh Đàm, hai bên đã ký Bản Thỏa thuận hình thành tư cách pháp nhân với tỷ lệ góp vốn 50/50. Bà Mai đã chuyển tiền theo đúng tỷ lệ góp vốn. Tổng cộng có 5 tờ phiếu thu với tổng số tiền là 1.187.900.000đ, mỗi bên 50%. 5 phiếu thu này do ông Tú đi nộp tiền thay và diễn ra sau khi vợ chồng bà Ninh nhận tiền của bà Mai, có viết biên nhận.
Ngày 12/12/2001, hai bên đã ký Biên bản về việc góp vốn Cty theo Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh (ĐKKD) số 0102003822 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp ngày 12/11/2001. Việc xây dựng tòa nhà Trung tâm thương mại trên diện tích hơn 800m2 đất do Cty TNHH Đầu tư và Thương mại Mai Ninh làm chủ đầu tư, hai bên tiếp tục góp vốn theo tỷ lệ 50/50. Bà Mai khẳng định mình đã góp vốn đủ và tài sản nhà đất đang tranh chấp là tài sản của Cty. Việc Tòa chia tài sản của Cty cho một người không phải là thành viên như trên là xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bà cũng như Cty Mai Ninh.
Kháng cáo có căn cứ pháp luật
Nhận xét về vụ kiện trên, ông Đỗ Văn Chỉnh – nguyên Thẩm phán TANDTC, nguyên Trưởng ban Thanh tra TANDTC đánh giá, theo Giấy chứng nhận ĐKKD thì Cty Mai Ninh có vốn điều lệ: 3 tỷ đồng, gồm hai thành viên góp vốn là bà Nguyễn Thị Diệu Ninh và Nguyễn Thị Tuyết Mai (giá trị góp vốn mỗi người 1,5 tỷ đồng). Như vậy, ông Tú không phải là thành viên Cty, không được pháp luật ghi nhận là người có góp vốn vào Cty Mai Ninh.
Theo chứng cứ thì ông Tú cũng không hề cho Cty Mai Ninh vay tiền để hoạt động. Vì vậy, nếu ông Tú có tranh chấp về số tiền cho rằng mình đã nộp năm 2001 thì đây phải coi là tranh chấp quyền sở hữu về tài sản giữa ông Tú và bà Ninh liên quan đến số tiền mà bà Ninh góp vốn vào Cty Mai Ninh. Tức là ông Tú phải kiện đối với cá nhân bà Ninh chứ không thể khởi kiện Cty Mai Ninh.
Cần hiểu rằng, quan hệ tranh chấp tài sản tài sản giữa thành viên Cty hoàn toàn tách biệt với tranh chấp tài sản với Cty vì Cty là một pháp nhân độc lập. Vì vậy, đáng lẽ phải hướng dẫn ông Tú khởi kiện đúng đối tượng (bà Ninh) thì TAND quận Hoàng Mai lại thụ lý vụ án và xác định không đúng quan hệ pháp luật của vụ án (cho đây là quan hệ “Tranh chấp đòi tài sản” đối với Cty) nên áp dụng pháp luật, xác định địa vị tham gia tố tụng và đưa ra phán quyết không đúng theo quy định Luật Doanh nghiệp năm 2014 (từ Điều 47 đến Điều 54).
Với phán quyết của TAND quận Hoàng Mai về việc cho ông Nguyễn Việt Tú sở hữu giá trị hạ tầng 1.187.900.000 đ trên diện tích đất 848,5m2 và sở hữu 1/2 giá trị tòa nhà 6 tầng tại địa chỉ CC2 Khu nhà ở Bắc Linh Đàm như trên thì không biết công tác thi hành án sẽ ra sao? Cơ quan thi hành án sẽ phải “cắt” 1/2 căn nhà 6 tầng và cắt giá trị hạ tầng 1.187.900.000đ để chia cho ông Tú như thế nàoo? UBND Hà Nội chỉ chấp nhận cho một pháp nhân thuê đất, làm dự án Trung tâm thương mại nhưng nếu dự án “chia 5, xẻ 7” như trên thì có đảm bảo đúng quy định?