Nâng cao nhận thức của xã hội về công tác xã hội
Ngành Công tác xã hội ra đời với sứ mạng hàn gắn những rạn nứt của xã hội trong quá trình phát triển, giảm thiểu sự bất bình đẳng xã hội và hướng tới sự phát triển bền vững, nhân văn và nhân ái; và cũng là ngành khoa học và là một nghề nghiệp chuyên môn, đòi hỏi người làm nghề công tác xã hội phải được đào tạo về kiến thức chuyên ngành và kỹ năng chuyên môn
Tuy vậy, ở Việt Nam, khái niệm về nghề công tác xã hội ở Việt Nam còn khá lạ lẫm với rất nhiều người, đặc biệt là các em học sinh mới tốt nghiệp trung học phổ thông, mặc dù đây là một ngành nghề có lịch sử phát triển rất lâu đời ở các nước phát triển trên thế giới như Anh, Mỹ, Pháp…
Kể từ khi có Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020” ngày 25/3/2010 thì công tác xã hội mới được nhắc đến như một nghề quan trọng tại Việt Nam và có bước phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục và tư pháp.
Tuy nhiên, việc phát triển nghề công tác xã hội cũng còn gặp không ít khó khăn và thách thức, cần thiết phải thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp quan trọng như: truyền thông nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò vị trí, tầm quan trọng của nghề công tác xã hội; hoàn thiện khuôn khổ luật pháp về hành nghề công tác xã hội chuyên nghiệp…
Đây cũng là những vấn đề trọng tâm được đề cập tại Hội thảo quốc tế “Hoàn thiện khung pháp lý phát triển công tác xã hội tại Việt Nam” diễn ra ngày 23/3 do Trung ương Đoàn phối hợp với Bộ LĐ-TB&XH tổ chức.
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh TTTĐ |
Phát biểu tại hội thảo, Bí thư Trung ương Đoàn, Chủ tịch Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam ông Nguyễn Minh Triết cho biết, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, công tác xã hội đã có những đóng góp quan trọng thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là quan tâm hỗ trợ những những nhóm người yếu thế. Tại Việt Nam, công tác xã hội cũng đã đạt được nhiều kết quả. Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Đề án phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020” ngày 25/3/2010 là dấu mốc quan trọng đánh dấu điểm khởi đầu cho sự phát triển nghề công tác xã hội ở Việt Nam.
Tiếp nối Quyết định 32, ngày 22/1/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 112/QĐ-TTg ban hành chương trình phát triển công tác xã hội giai đoạn 2021 – 2030 với mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh phát triển công tác xã hội tại các ngành, các cấp, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo từng giai đoạn; đảm bảo nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công tác xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội trên các lĩnh vực, đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ công tác xã hội của người dân, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả.
“Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự phát triển như vũ bão của khoa học-công nghệ, nhiều vấn đề xã hội đang tiếp tục nảy sinh cần được quan tâm giải quyết, nhiều quy định pháp lý cần được quan tâm hoàn thiện”, ông Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh.
Dịch vụ công tác xã hội hiệu quả có liên quan đến tỷ lệ tái phạm thấp hơn
Trong khuôn khổ hội thảo, bên cạnh phiên toàn thể, hai phiên chuyên đề cũng được tổ chức. Tại phiên chuyên đề 1 với chủ đề “Hoàn thiện khung pháp lý và dịch vụ công tác xã hội – Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam”, Th.s Cao Đăng Vinh - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp đã có bài tham luận về “Báo cáo rà soát chính sách pháp luật về công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp”.
Công tác xã hội là một nghề có vai trò giúp đỡ, hỗ trợ và tạo điều kiện cho những người có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn và khó hòa nhập với cộng đồng. Ảnh minh họa nguồn Internet |
Theo Th.s Cao Đăng Vinh, nói tới lĩnh vực Tư pháp, có thể hiểu là hoạt động của các cơ quan nhà nước liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử của tòa án như bổ trợ tư pháp, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Như vậy, công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp có thể hiểu là những hoạt động chuyên nghiệp nhằm giải quyết các vấn đề của cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội trong các hoạt động thuộc lĩnh vực Tư pháp như: bổ trợ tư pháp, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, góp phần bảo đảm thực hiện quyền con người, công bằng, tiến bộ xã hội.
Qua các nghiên cứu đã chứng minh một cách rõ ràng rằng, các dịch vụ công tác xã hội hiệu quả có liên quan đến tỷ lệ tái phạm thấp hơn. Tuy nhiên, dịch vụ công tác xã hội trong lĩnh vực tư pháp hiện nay mới tập trung hỗ trợ, giúp đỡ người vi phạm pháp luật, người phạm tội, người bị kết án, chấp hành án mà chưa thực sự chú trọng đến việc cung cấp các dịch vụ công tác xã hội cho đối tượng là người bị hại, nạn nhân của các vụ vi phạm pháp luật, vụ án như nạn nhân bị mua bán người, nạn nhân bị xâm hại tình dục…, đặc biệt nạn nhân là người dưới 18 tuổi.
Theo Th.s Cao Đăng Vinh, trong lĩnh vực Tư pháp hiện nay chưa có văn bản pháp luật quy định trực tiếp, cụ thể về nghề công tác xã hội hay người làm công tác xã hội, tuy nhiên, đã có một số quy định mang tính cơ sở cho nghề công tác xã hội, người làm công tác xã hội. Các quy định này tồn tại dưới dạng các quy định về vai trò, chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ, giúp đỡ người có hành vi vi phạm pháp luật, người phạm tội, người bị hại, người bị kết án, người chấp hành hình phạt.
Tại các văn bản pháp luật như Luật Trẻ em, các luật liên quan như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự,… và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này đã có những quy định tại cơ sở cho việc hình thành các dịch vụ công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp, trong đó có các quy định liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, bảo vệ người chưa thành niên cũng như sự tham gia của các cơ quan, tổ chức dân sự trong quá trình tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên.
“Với thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay quy định về việc hỗ trợ, trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội thì đã đến lúc cần nghiên cứu để xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật riêng về công tác xã hội (Nghị định hoặc Luật Công tác xã hội), trong đó có các quy định về công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp, có thể tập trung vào một số vấn đề như: các dịch vụ công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp; vai trò, vị trí, chức năng, trách nhiệm của nhân viên công tác xã hội trong việc cung cấp các dịch vụ công tác xã hội chuyên nghiệp trong hệ thống tư pháp; cơ chế tuyển dụng người làm công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp; yêu cầu năng lực, trình độ chuyên môn cán bộ làm công tác xã hội trong lĩnh vực Tư pháp…” - Th.s Cao Đăng Vinh nhấn mạnh.
Theo Bộ LĐ-TB&XH, hiện nay, cả nước có khoảng 235 ngàn người tham gia cung cấp dịch vụ công tác xã hội, trong đó có khoảng 35 ngàn làm việc tại các cơ sở cung cấp dịch vụ, gần 100 ngàn làm việc ở các hội, tổ chức đoàn thể, trên 100 ngàn người là cộng tác viên giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ trẻ em.
Như vậy, cứ khoảng 425 người dân có một nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp. Tuy tỷ lệ nhân viên công tác xã hội trên dân số là 1/425 người dân, nhưng trên 80% là bán chuyên nghiệp và cộng tác viên nên việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội có tính chất chuyên môn chuyên sâu còn rất hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu của người dân. Vì vậy cần tăng cường lực lượng nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong tổng số người tham gia hoạt động công tác xã hội lên ít nhất 30% vào năm 2030 và 50% vào năm 2045 để đáp ứng nhu cầu chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội ở Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm Ngày Công tác xã hội Việt Nam (25/3), Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung đã gửi thư chúc mừng tới toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội cả nước.