Thể chế trong Kỷ nguyên mới

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về doanh nghiệp dân tộc tại Việt Nam

Cần thiết nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách hình thành và phát triển doanh nghiệp dân tộc. (Ảnh minh họa: congthuong.vn)
Cần thiết nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách hình thành và phát triển doanh nghiệp dân tộc. (Ảnh minh họa: congthuong.vn)
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -  Trên cơ sở Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới, Chính phủ cần quy định cụ thể về các tiêu chí doanh nghiệp dân tộc, để có cơ chế, chính sách phát triển đối với doanh nghiệp dân tộc.

Cơ sở chính trị

Nghị quyết 41-NQ/TW năm 2023 của Đảng đã đưa ra quan điểm về xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới: Đội ngũ doanh nhân có vị trí, vai trò quan trọng, là một trong những lực lượng nòng cốt góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Có chính sách đột phá để hình thành, phát triển doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu, có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp.

Tăng cường liên kết, hợp tác trong đội ngũ doanh nhân, giữa doanh nhân với công nhân, nông dân, trí thức cùng thực hiện mục tiêu phát triển đất nước.

Xây dựng, tôn vinh, cổ vũ đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật, góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, an toàn, bình đẳng để doanh nghiệp phát triển và cống hiến là trách nhiệm của Đảng,

Nhà nước, hệ thống chính trị và đội ngũ doanh nhân gắn với quá trình hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Có thể thấy, Nghị quyết 41-NQ/TW của Đảng rất chú trọng đến việc phát triển doanh nghiệp dân tộc để dẫn dắt các lĩnh vực then chốt, trọng yếu, làm chủ chuỗi giá trị công nghiệp để phát triển đất nước, xã hội. Chính vì vậy, dựa trên cơ sở này, Chính phủ cần quy định cụ thể về các tiêu chí doanh nghiệp dân tộc, để có cơ chế, chính sách phát triển đối với doanh nghiệp dân tộc.

Định nghĩa, các đặc điểm doanh nghiệp dân tộc

Mặc dù trong Nghị quyết 41-NQ/TW năm 2023 có đưa ra “có chính sách đột phá để hình thành, phát triển doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu”, nhưng hiện tại chưa có định nghĩa nào về doanh nghiệp dân tộc. Theo chúng tôi, có thể hiểu một cách khái quát doanh nghiệp dân tộc là những doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp, do người Việt Nam làm chủ sở hữu và có uy tín trên thị trường. Từ cách hiểu này, chúng tôi đưa ra được các đặc điểm của doanh nghiệp dân tộc, cụ thể như sau:

Một là, doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, đều là doanh nghiệp dân tộc nếu chủ sở hữu là người Việt Nam. Nghĩa là bất kể doanh nghiệp đó là những doanh nghiệp hàng đầu hay là những doanh nghiệp siêu nhỏ có sở hữu là người Việt Nam thì đó là doanh nghiệp dân tộc.

Hai là, không phân biệt các doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân, đáp ứng được yêu cầu do người Việt chúng ta sở hữu thì được coi là doanh nghiệp dân tộc, như các doanh nghiệp cheabol (tập đoàn) của Hàn quốc, các tập đoàn Panasonic, Toyota, người sở hữu đều là người của quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản.

Ba là, không phân biệt các doanh nghiệp ở trong nước hay ngoài nước đang hoạt động, chỉ cần đó là doanh nghiệp do người Việt làm chủ, không phân biệt đang hoạt động ở hải ngoại, chỉ cần đó là người Việt chúng ta là chủ sở hữu thì đều coi đó là doanh nghiệp dân tộc. Điều này đưa lại sự gắn kết giữa các doanh nhân, doanh nghiệp Việt kiều đang sinh sống ở hải ngoại cũng như các chủ doanh nghiệp trong nước, vì mục đích chung hướng đến sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Bốn là, một điểm mang tính chất định tính là doanh nghiệp phải có uy tín trên thị trường, có thể là trong nước hoặc ngoài nước, những doanh nghiệp như này sẽ góp phần thúc đẩy thương hiệu, tạo lòng tin đối với xã hội, đất nước.

Nếu hiểu theo nghĩa như trên rất trực quan, sinh động, bao hàm được các đặc điểm để doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp dân tộc, phân biệt với các doanh nghiệp khác như các doanh nghiệp, tập đoàn nước ngoài.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng lưu ý vấn đề sau: Trong Luật Đầu tư 2020 thì các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam thì những doanh nghiệp được đầu tư đó có thể coi là doanh nghiệp dân tộc hay chỉ là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, điều này chúng ta cũng cần làm rõ nội hàm để xác định được doanh nghiệp dân tộc hay không? Theo chúng tôi được biết đến nay vẫn chưa có sự xác định đó là doanh nghiệp dân tộc, mà chỉ được coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Hoàn thiện chính sách,pháp luật về doanh nghiệp dân tộc

Theo quan điểm của chúng tôi, không nên quy định riêng về doanh nghiệp dân tộc mà cần lồng ghép các quy định liên quan đến doanh nghiệp dân tộc trong các văn bản pháp luật đã sẵn có, bởi doanh nghiệp dân tộc không tách rời các quy định pháp luật như: Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Đầu tư 2020, Luật Kinh doanh bất động sản 2023, Luật Cạnh tranh 2018… Để làm được điều đó, trước hết Chính phủ cần rà soát tất cả các quy định pháp luật, bổ sung thêm các quy định liên quan đến doanh nghiệp dân tộc, có thể chưa cần quy định cụ thể thế nào là doanh nghiệp dân tộc nhưng cần đưa ra các tiêu chí đánh giá về doanh nghiệp dân tộc.

Luật sư Bùi Bảo Ngọc. (Ảnh: PV)

Luật sư Bùi Bảo Ngọc. (Ảnh: PV)

Để hoàn thiện chính sách, pháp luật về doanh nghiệp dân tộc, chúng tôi xin đưa ra một số các yêu cầu như sau:

Liên quan đến các tiêu chí về doanh nghiệp dân tộc, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số tiêu chí như sau, doanh nghiệp dân tộc là doanh nghiệp:

Thứ nhất, được đăng ký thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020.

Dù là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp đầu tư có vốn nước ngoài, các doanh nghiệp nhỏ như hợp tác xã, công ty, hộ kinh doanh cá thể hay doanh nghiệp dân tộc thì đều phải được thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Đây là tiêu chí đầu tiên về doanh nghiệp dân tộc.

Thứ hai, doanh nghiệp do người Việt Nam làm chủ sở hữu.

Trong Luật Doanh nghiệp quy định các loại hình doanh nghiệp cụ thể, chủ sở hữu có thể là cá nhân hoặc tổ chức nhưng điều kiện tiên quyết phải do người Việt Nam làm chủ sở hữu. Ở đây không phân biệt là người có quốc tịch Việt Nam hoặc không có quốc tịch Việt Nam, chỉ cần là người gốc Việt có doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam thì cũng cần xác định đó là doanh nghiệp dân tộc.

Thứ ba, doanh nghiệp có thương hiệu uy tín trên thị trường.

Để đánh giá một doanh nghiệp có uy tín trên thị trường trở thành doanh nghiệp dân tộc, chúng ta cũng cần xem xét ở các giá trị định tính, uy tín trên thị trường có thể xem xét đến khía cạnh thương hiệu sản phẩm có giá trị. Và để đánh giá doanh nghiệp có giá trị thương hiệu trên thị trường, chúng ta cũng cần nhìn nhận nhiều mặt như thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm doanh nghiệp, lịch sử hoạt động, phát triển, các đột phá hay uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.

Đối với các quy định pháp luật về doanh nghiệp dân tộc, cần quy định các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp dân tộc, trách nhiệm của doanh nghiệp dân tộc. Theo đó, đối với những doanh nghiệp dân tộc, Chính phủ cần tạo các lợi thế thuận lợi từ việc cấp phép, chứng nhận theo quy định của pháp luật. Hỗ trợ về các nguồn vốn huy động để phát huy tối đa sức mạnh nội tại của các doanh nghiệp dân tộc, trở thành các doanh nghiệp thương hiệu quốc tế, đúng như tư duy của Nhà nước về việc phấn đấu tăng trưởng kinh tế hai con số, tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, vừa kiến tạo phát triển, huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội.

Tuy chúng ta cần hỗ trợ về các nguồn lực như vốn, cơ chế thủ tục hành chính, hay các hỗ trợ khác đối với doanh nghiệp nhưng cũng phải có “hàng rào kỹ thuật” bảo vệ doanh nghiệp dân tộc để tránh các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam cho rằng doanh nghiệp dân tộc được ưu ái, cạnh tranh không lành mạnh, phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp nước ngoài, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây cũng là bài toán mà Chính phủ cần giải quyết khi đưa các quy định về doanh nghiệp dân tộc vào các luật, nghị định, thông tư hướng dẫn.

Về giải quyết các tranh chấp doanh nghiệp dân tộc, việc hoàn thiện các chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước đối với doanh nghiệp dân tộc gắn liền với các quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh đối với các doanh nghiệp dân tộc. Theo quan điểm của chúng tôi, để hỗ trợ và bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của các doanh nghiệp dân tộc, Chính phủ cần quy định cụ thể về cơ chế luật sư công bảo vệ cho doanh nghiệp nước nhà trong lĩnh vực kinh doanh thương mại quốc tế mà chúng tôi đã từng chỉ ra nhiều lợi ích của luật sư công đối với các doanh nghiệp nhà nước khi tham gia tranh chấp quốc tế.

Các doanh nghiệp dân tộc có thể được coi là đại diện cho dân tộc Việt Nam, việc đưa cơ chế luật sư công vào giải quyết các tranh chấp thương mại cho doanh nghiệp dân tộc thiết nghĩ không mâu thuẫn đối với doanh nghiệp, cơ quan nhà nước mà còn là sự bổ sung cần thiết đối với các doanh nghiệp dân tộc, phòng tránh các rủi ro phát sinh, tăng sự cạnh tranh của doanh nghiệp dân tộc đối với các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam cũng như trên thế giới.

Việc tận dụng các luật sư công khi giải quyết các tranh chấp của doanh nghiệp dân tộc sẽ phát huy được giá trị mà đội ngũ luật sư hiện nay của chúng ta mang lại, thay vì tốn kém hàng triệu đô la để thuê luật sư nước ngoài mà có thể chưa hiệu quả bằng các luật sư công trong nước.

Trên đây là một số quan điểm của chúng tôi về việc hoàn thiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với doanh nghiệp dân tộc. Để phát huy cao độ các giá trị của doanh nghiệp Việt Nam, Nhà nước cần tháo gỡ các “điểm nghẽn” về thể chế, cũng như có những chính sách thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, chỉ khi những doanh nghiệp có những lợi thế nhất định, mới cạnh tranh và tạo thương hiệu cho đất nước ta trên con đường hội nhập sâu rộng, cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.

Tin cùng chuyên mục

Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh tiếp thu giải trình về dự thảo Luật. (Ảnh Cổng TTĐT Quốc hội)

Tham vấn chính sách - tiếp cận “từ sớm, từ xa” đối với các chính sách do Chính phủ quyết định

(PLVN) - Báo cáo làm rõ hơn một số vấn đề lớn liên quan đến dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) được nhiều đại biểu Quốc hội góp ý trong phiên thảo luận tại hội trường chiều 13/2, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh nhấn mạnh, việc bổ sung các quy định về tham vấn chính sách giúp các đối tượng liên quan tiếp cận “từ sớm, từ xa” đối với các chính sách do Chính phủ quyết định.

Đọc thêm

Bảo đảm minh bạch, hiệu quả quản lý và giám sát quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật

TS. Ngô Linh Ngọc, Phó Trưởng Bộ môn phụ trách môn Xây dựng VBQPPL, Khoa Pháp luật Hành chính Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội
(PLVN) -  Các vấn đề đổi mới trong dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) (sửa đổi) là hợp lý, mang tính đột phá và sẽ tạo ra sự thay đổi lớn về tư duy trong việc ban hành các VBQPPL. Đây là nhận định của TS. Ngô Linh Ngọc, Phó Trưởng Bộ môn phụ trách môn Xây dựng VBQPPL, Khoa Pháp luật Hành chính Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội trong cuộc trao đổi với Báo Pháp luật Việt Nam.

Sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Sẽ kịp thời tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn”

Bà Đỗ Thị Việt Hà.
(PLVN) - Sửa đổi toàn diện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) sẽ kịp thời tháo gỡ vướng mắc, bất cập về thể chế đã được xác định là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, khơi thông các nguồn lực để đất nước phát triển đột phá, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57: 'Khoán 10' trong kỷ nguyên vươn mình

Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển KH,CN,ĐMST và chuyển đổi số quốc gia.
(PLVN) -  Tổng Bí thư Tô Lâm - Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (KH,CN,ĐMST), chuyển đổi số yêu cầu phải rất khẩn trương hoàn thiện thể chế, chính sách. Trong năm 2025, càng sớm càng tốt phải hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định pháp luật, cơ chế, chính sách, tháo gỡ hết các “điểm nghẽn”, rào cản để phát triển KH,CN,ĐMST và chuyển đổi số, giải phóng tối đa sức sáng tạo, khuyến khích dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm…

Tâm thế sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2025

Năm 2025 là cột mốc “về đích” của các dự án hạ tầng trọng điểm giai đoạn 2021 - 2025. (Cao tốc Bắc - Nam phía Đông - Nguồn: VEC)
(PLVN) - Sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, từ ngày 3/2 (mùng 6 Tết Âm lịch), các công chức, viên chức, người lao động đã quay trở lại làm việc với tinh thần phấn khởi, khí thế hăng say lao động. Điều này cho thấy nỗ lực bảo đảm việc trở lại làm việc bình thường ngay sau đợt nghỉ Tết đã được thực hiện tốt, tạo tiền đề vững chắc để triển khai hiệu quả các nhiệm vụ công tác năm 2025.

Nhiều đột phá tạo tiền đề nâng cao chất lượng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

TS Đinh Văn Minh, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ.
(PLVN) -  Trao đổi với Báo Pháp luật Việt Nam, TS Đinh Văn Minh, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ khẳng định, những sửa đổi, bổ sung mang tính đột phá trong Dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) sẽ là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật, góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn công cuộc đổi mới.

Tiếp tục đổi mới và tinh gọn hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Tờ trình tại Phiên họp (Ảnh: Hồ Long)
(PLVN) - Chiều nay (5/2), trình bày Tờ trình dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) sửa đổi, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, dự thảo Luật quy định theo hướng bảo đảm Chính phủ làm đúng vai là cơ quan trình dự án luật và chịu trách nhiệm đến cùng với dự án luật do mình trình; Quốc hội là cơ quan lập pháp, có quyền thông qua hoặc không thông qua dự án luật do Chính phủ trình.

Quyết liệt khơi thông những điểm nghẽn

Tổng Bí thư Tô Lâm, Chủ tịch nước Lương Cường, Thủ tướng Phạm Minh Chính bấm nút biểu quyết thông qua Nghị quyết tại Kỳ họp thứ 8.
(PLVN) - Năm 2024 là một năm vô cùng sôi động trong hoạt động của Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Niềm tin vào “cuộc đổi mới lần 2”

Việt Nam được đánh giá đã hội đủ cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa cho kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc (Ảnh: Nhật Bắc)
(PLVN) - Tết Ất Tỵ 2025, cùng với niềm vui đón Xuân mới, cũng là niềm vui cả nước đang đứng trước ngưỡng cửa bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Một trong những công việc cực kỳ quan trọng để đất nước cất cánh, là tinh gọn tổ chức bộ máy, có thể gọi là cuộc đổi mới lần hai.

Trung ương thống nhất tinh gọn bộ máy của Chính phủ còn 17 bộ, ngành và 5 cơ quan trực thuộc

Trung ương thống nhất tinh gọn bộ máy của Chính phủ còn 17 bộ, ngành và 5 cơ quan trực thuộc
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ra trong hai ngày 23 và 24/1, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cho ý kiến và thông qua nội dung tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị về Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.  

Xây dựng cho được đội ngũ cán bộ lãnh đạo gương mẫu, quyết liệt

Đại hội XIII đã đặt ra những yêu cầu cụ thể về xây dựng đội ngũ cán bộ. (Ảnh: dangcongsan.vn)
(PLVN) -  Nhìn lại chặng đường 95 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta vô cùng tự hào và hoàn toàn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của Đảng và của dân tộc. Tuy nhiên, để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới, chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề mới phải xử lý và một trong số đó là phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan cần gương mẫu, chủ động, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao.