Hỗ trợ kết hôn không phải là “treo ảnh”

 Trung tâm hỗ trợ kết hôn là một trong những biện pháp hỗ trợ hôn nhân cho công dân Việt Nam khi kết hôn với người nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế các trung tâm này hiện đang hoạt động rất “cầm chừng”. Một số “may dựa được vào hoạt động tư vấn pháp luật” còn “khấm khá”...

Trung tâm hỗ trợ kết hôn là một trong những biện pháp hỗ trợ hôn nhân cho công dân Việt Nam khi kết hôn với người nước ngoài.

Các trung tâm này thuộc hội liên hiệp phụ nữ, được thành lập ở 63 tỉnh, thành phố, với mục đích giới thiệu, giúp đỡ công dân Việt Nam và người nước ngoài tìm hiểu các vấn đề về hoàn cảnh cá nhân, gia đình, xã hội của các bên, phong tục, tập quán và các vấn đề khác có liên quan mà các bên yêu cầu; tạo điều kiện thuận lợi để họ tiến tới hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, một vợ một chồng; giúp đỡ các bên hoàn tất hồ sơ đăng ký kết hôn… như qui định tại khoản 2 điều 24 Nghị định 68/2002/NĐ-CP (ngày 10/7/2002) của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

Tuy nhiên, trên thực tế các trung tâm này hiện đang hoạt động rất “cầm chừng”. Một số “may dựa được vào hoạt động tư vấn pháp luật” còn “khấm khá”. Đa số trong tình trạng “đìu hiu”, dường như chỉ thành lập cho có khi mảng “hỗ trợ hôn nhân” hầu như không phát huy được vì… không có khách hàng.

Trong số vô vàn nguyên nhân thì quan trọng là vì nhiều cuộc hôn nhân “có yếu tố nước ngoài” này lại thường hướng đến “mục đích kinh tế”. Và để nhanh chóng giải quyết được thủ tục, các đương sự thường trông chờ vào “cò”, vừa nhanh, vừa hiệu quả, cần là có ngay!

Bên cạnh các trung tâm, đã có những đề nghị về việc thành lập các công ty môi giới hôn nhân hoặc cho phép các tổ chức hoạt động môi giới hợp pháp của nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đó có thể là một lực lượng để cùng các trung tâm hỗ trợ hôn nhân của hội phụ nữ phát huy được vai trò trong việc “lành mạnh hóa và ổn định” cho các cuộc hôn nhân giữa công dân Việt Nam và nước ngoài.

Vì vậy, tăng cường hiệu quả của các trung tâm này sẽ góp phần định hướng rõ ràng, chuẩn bị tốt hơn cho công dân Việt Nam khi kết hôn với người nước ngoài, tránh những các hậu quả đáng tiếc do va chạm, bất đồng trong cuộc sống hôn nhân “không biên giới”.

Song điều cần lưu ý là cho dù đó là công ty, trung tâm hay tổ chức thì cũng cần có các qui định cụ thể để không bị “đội lốt” thành nơi “môi giới”, hoạt động theo kiểu “treo ảnh, treo album”, ai cần kết hôn với người nước ngoài thì đến đó, “xem mặt, chọn người”.

Từ đó, khi nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Nghị định 68 và Nghị định 69/2006/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định 68, Vụ Hành chính Tư pháp (Bộ Tư pháp) đề xuất cho phép trung tâm được giới thiệu công dân Việt Nam có nhu cầu kết hôn với người nước ngoài cho người nước ngoài có nhu cầu kết hôn với công dân Việt Nam; xây dựng và thực hiện cơ chế hợp tác với các tổ chức hoạt động môi giới hợp pháp của nước ngoài trong việc giải quyết vấn đề về hôn nhân và gia đình giữa phụ nữ Việt nam với người nước ngoài, cấp phép hoạt động tại Việt Nam cho Tổ chức hoạt động môi giới hợp pháp của nước ngoài…

Huy Anh