Người đặt nền móng cho báo chí cách mạng Việt Nam
Cuối năm 1917, khi trở lại Pháp, tuy vốn ngôn ngữ tiếng Pháp chưa đủ để viết báo nhưng với tinh thần quyết tâm cao, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành khi ấy đã tự học tiếng Pháp và học làm báo. Những ngày đầu, Người được Jean Longuet - cháu ngoại của Karl Marx, làm việc ở báo “Sinh hoạt công nhân” chỉ dẫn nghiệp vụ báo chí. Những bài viết của Người sau đó đã được đăng.
Ngày 18/6/1919, các nước thắng trận trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất họp tại Versailles. Thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn Tất Thành thay mặt cho cả nhóm ký tên gửi tới hội nghị bản yêu sách 8 điểm đòi quyền lợi cho nhân dân Việt Nam với tên Nguyễn Ái Quốc. Đây có lẽ là văn bản đầu tiên ghi dấu ấn của Người về việc đòi các quyền tự do căn bản cho người dân Việt Nam, trong đó có tự do báo chí. Năm 1921, cũng tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà yêu nước thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa để rồi sau đó một năm, năm 1922 lập ra tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) làm cơ quan ngôn luận của Hội. Số báo đầu tiên của Le Paria ra ngày 1/4/1922 và Nguyễn Ái Quốc trở thành nhân vật nòng cốt của tờ báo: vừa là biên tập viên chính, vừa là phóng viên, nhiếp ảnh.
Trong khoảng thời gian từ năm 1919 - 1926, Bác đã viết hàng trăm bài báo phục vụ sự nghiệp tuyên truyền cách mạng, bút danh Nguyễn Ái Quốc được sử dụng nhiều nhất, trong đó có những tác phẩm quan trọng đối với cách mạng Việt Nam được tập hợp trong 2 cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường kách mệnh (1927). Cuốn đầu là bản cáo trạng đối với chủ nghĩa thực dân Pháp nói riêng và chủ nghĩa đế quốc nói chung nhằm thức tỉnh nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức, cuốn sau là định hướng cho hành động cách mạng viên kiêm việc tổ chức, quản lí, phát hành với 38 bài viết cho báo này.
Tại Quảng Châu - Trung Quốc năm 1925, để có một tờ báo cho tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Báo Thanh niên. Số đầu tiên của Báo Thanh niên ra ngày 21/6/1925 và đã ra được 88 kỳ. Trên tờ báo này, Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chỉ đạo, biên tập, trình bày cũng như viết các bài viết chính luận. Nhiều số báo đã được các nhà cách mạng chuyển về trong nước bằng những con đường khác nhau giúp thức tỉnh tinh thần yêu nước của người Việt. Không những thế, các tờ báo này đã được các thủy thủ, các binh sĩ, những người có cảm tình chuyển đi nhiều nước, thâm nhập vào phong trào yêu nước của các tổ chức người Việt ở các nước trên thế giới.
Tiếp đó, tháng 12/1926, Nguyễn Ái Quốc lập ra Báo Công nông dành cho hai giai cấp chủ chốt của cách mạng. Tháng 1/1927, Người sáng lập Báo Lính kách mệnh (tiền thân của Báo Quân đội nhân dân ngày nay)… Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Người đã chỉ đạo và tổ chức ra các tờ Tranh đấu và tạp chí Đỏ. Tháng 1/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước và từ đây người mang tên mới là Hồ Chí Minh. Sau khi về nước, Người đã chủ trì triệu tập Hội nghị Trung ương 8 thành lập Mặt trận Việt Minh, cho ra tờ báo Việt Nam độc lập từ năm 1941 và Báo Cứu quốc từ năm 1942. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II tháng 2/1951, Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập Báo Nhân dân - cơ quan ngôn luận của Đảng Lao động Việt Nam.
Và gần 200 bút danh khác nhau
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại kho tàng đồ sộ với hơn 2.000 bài báo. Người đã trực tiếp cho ra đời 9 tờ báo: Người cùng khổ (1922); Quốc tế Nông dân (1924); Thanh niên (1925); Công nông (1925); Lính kách mệnh (1927); Việt Nam tiền phong (1927); Thân ái (1928); Đỏ (1929); Việt Nam độc lập (1941); Cứu quốc (1942). Riêng tờ Người cùng khổ, Người vừa là chủ nhiệm đồng thời là chủ bút, họa sĩ biếm họa, thợ rửa ảnh, thủ quỹ, phát hành, bán báo...
Bài báo đầu tiên trong đời làm báo của Người là bài viết Vấn đề người bản xứ đăng trên báo báo L'Humanité ngày 2/8/1919. Bài báo cuối cùng mà Người viết là bài Thư trả lời Tổng thống Mỹ, đăng Báo Nhân dân số 5684, ngày 7/11/1969 (bài báo này Hồ Chí Minh viết ngày 25/8/1969, tức là trước một tuần ngày Người qua đời). Tuy nhiên, bài báo cuối cùng đăng khi Người còn sống là bài Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, ký tên TL, đăng Báo Nhân dân số 5526 ra ngày 1/6/1969).
Nhà báo Hồ Chí Minh không những chỉ viết báo bằng tiếng Việt mà còn viết bằng nhiều ngôn ngữ khác. Người là cộng tác viên và đã viết hàng loạt bài cho các báo như: L' Humanité (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp, La Vie d'Ouvriers (Đời sống thợ thuyền) của Liên đoàn Lao động Pháp, Điện tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản III, Pravda (Sự thật) của Đảng Cộng sản Liên Xô... Chỉ riêng Báo Nhân dân, nếu tính từ số từ số 1 ngày 11/3/1951 đến số 5526 ngày 1/6/1969, Người đã đăng 1.206 bài viết với 23 bút danh khác nhau. Cùng với đó, Bác Hồ cũng được xem là nhà báo có nhiều bút danh nhất thế giới với gần 200 bút danh khác nhau. Có những bút danh thậm chí được xem là rất kỳ lạ như: X.L., T.L., Một Người An Nam, Một Người Bạn…
Báo chí cách mạng vì nhân dân phục vụ
Không chỉ là nhà báo với nhiều tác phẩm, Người còn là người đặc biệt quan tâm đến việc phát triển báo chí cách mạng Việt Nam cũng như đào tạo, bồi dưỡng những người làm báo thật sự bút trong, tâm sáng. Ngày 17/8/1952, trong buổi nói chuyện tại Trường Chỉnh Đảng Trung ương ở Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ 4 vấn đề cơ bản trước những cán bộ báo chí: “Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?”. Cũng tại đây, Người đã giải đáp cặn kẽ những câu hỏi này, đó là: “Phải viết gọn, rõ ràng, vắn tắt. Nhưng vắn tắt không phải là cụt đầu, cụt đuôi mà phải có đầu, có đuôi... Viết phải thiết thực, “nói có sách, mách có chứng'”, tức là nói cái việc ấy ở đâu, thế nào, ngày nào, nó sinh ra thế nào, phát triển thế nào, kết quả thế nào?”.
Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam tháng 9/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự. Tại đây, Người đã thẳng thắn phê bình những khuyết điểm của báo chí bấy giờ: “Bài báo thường quá dài, “dây cà ra dây muống”, không phù hợp với trình độ và thời gian của quần chúng…”. Người cũng phê phán một số bài báo “thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng thành tích”, “đưa tin tức hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng…”. Đặc biệt, Người phê phán tình trạng mà Người gọi là “khuyết điểm nặng nhất” đấy chính là nhiều bài báo “dùng chữ nước ngoài quá nhiều và lắm khi dùng không đúng…”. Và Người căn dặn: “Báo chí của ta đã có một địa vị quan trọng trong dư luận thế giới... Cho nên làm báo phải hết sức cẩn thận về hình thức, về nội dung, về cách viết”.
Khi Bác Hồ còn hoạt động ở Pháp, những bài viết của Người nhằm để đánh vào giới thực dân, đế quốc nên Người dùng chữ tài tình, biến hóa. Khi ở căn cứ Việt Bắc, đa phần người dân ở vùng căn cứ cách mạng, vùng tự do khi ấy có trình độ học vấn và hiểu biết chưa cao, nên những bài viết của Người thường mộc mạc, dễ hiểu, mang tính đại chúng. Chẳng hạn, trong bài viết mừng Giáng sinh 1953, Người viết: “Cách đây 1953 năm, một người bình dân ra đời tên là Giê su. Xét theo Kinh Thánh thì mẹ Người là một cố nhân bị địa chủ bóc lột, ức hiếp... Bà phải ở cữ trong một cái chuồng bò lạnh lùng, hiu quạnh. Từ bé đến lớn, Người không có tiền của, ruộng nương chỉ lao động mà sống... Suốt đời, Người ra sức bênh vực dân nghèo, đứng hẳn về phía giai cấp lao động. Suốt đời người ra sức tuyên truyền: Yêu Tổ quốc, yêu chính nghĩa, yêu loài người... Nhân ngày kỷ niệm Chúa Giáng sinh, chúng ta hoan hô đạo đức ái quốc, bình đẳng, bác ái của Chúa”.
Vào ngày 16/4/1959, tại Đại hội II của Hội Nhà báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Người viết báo là để “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Người cũng từng nói rằng, riêng về chuyện viết, Người thực sự sung sướng có 3 lần. Lần thứ nhất là bài báo đầu tiên của Người được đăng (chỉ dài có 3 dòng - bài này đến nay vẫn chưa tìm được). Lần thứ hai là khi truyện ngắn đầu tiên của Người được đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo). Lần thứ ba là sau khi Người viết xong Tuyên ngôn Độc lập.
Cho đến nay, các tư tưởng, phương pháp báo chí của Người vẫn thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ và phù hợp với báo chí cách mạng, báo chí hiện đại ở cả Việt Nam và trên thế giới. Với Người, báo chí không phải để cho một số ít người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền, giải thích đường lối của Đảng và Chính phủ, để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Báo chí cách mạng lấy mục đích vì nhân dân phục vụ, do vậy phải viết cho nhân dân đọc.
Ngôn ngữ của báo chí cách mạng phải trong sáng, dễ hiểu, rõ ràng, hạn chế dùng từ nước ngoài, phải diễn đạt được bằng ngôn ngữ của nhân dân. Đã là phục vụ quần chúng nhân dân thì nhất định phải chọn, ca ngợi, nhân rộng cái gì có lợi cho quần chúng nhân dân đồng thời có lợi có cách mạng, cho Tổ quốc, dân tộc; xa lánh cái xấu, cái có hại, không tốt cho quần chúng nhân dân.
Hiện nay, trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều thay đổi, internet, mạng xã hội phổ biến toàn cầu, biên giới thông tin truyền thống của mỗi quốc gia không còn nhiều rào cản, báo chí cách mạng Việt Nam đã quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về tính nhân dân của báo chí cách mạng. Báo chí cách mạng Việt Nam đã vượt lên những khó khăn về phương tiện, kỹ thuật, hết mình, hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, góp phần ngăn chặn tình trạng nhiễu, loạn thông tin, định hướng thông tin kịp thời cho quần chúng nhân dân.
Đội ngũ phóng viên, nhà báo sẵn sàng vượt khó vươn lên, gắn bó với đời sống nhân dân, ca ngợi những hành vi mới sáng tạo, phù hợp chân - thiện - mỹ, có lợi cho nhân dân, cho Tổ quốc… Lan tỏa những giá trị tốt đẹp, nhân văn, góp phần đẩy lùi những cái xấu trong cuộc sống…