Như thông lệ, mỗi khi các doanh nghiệp xuất khẩu gạo kêu than về giá gạo quốc tế xuống thấp, vì thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, bị cạnh tranh mạnh là lập tức giá lúa trong nước rớt thảm hại, rốt cuộc nông dân một nắng hai sương là người "lãnh đủ".
Trong quý I/2013, giá gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế liên tục hạ. Và, “kịch bản” lặp lại, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cảnh báo trên báo chí: Xuất khẩu gạo còn phải đối diện nhiều khó khăn, giá có thể xuống sâu nữa do cạnh tranh ngày càng gay gắt từ Ấn Độ, Thái Lan và một số nước cung cấp gạo lớn khác.
Giá gạo trên thế giới đang ổn định, chỉ có ở Việt Nam rơi tự do |
Nhưng trái ngược với nhận định của VFA, ông Nguyễn Đình Bích, một chuyên gia lúa gạo kỳ cựu nhận định: “Không có lý do nào khiến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam xuống thấp: thị trường thế giới nhìn chung ổn định; một số thị trường giảm nhập khẩu, một số quốc gia tăng sản lượng nhưng cán cân chung vẫn không thay đổi. Thậm chí, Trung Quốc - quốc gia trên thực tế nhập khẩu lớn nhất thế giới - dự báo năm 2013 - 2014 sẽ tăng khoảng 4% so với năm 2012 – 2013. Giá gạo trên thế giới đang ổn định, chỉ có ở Việt Nam rơi tự do. Vì vậy, chỉ có một lý do duy nhất, Việt Nam tự hạ giá”.
Thu mua tạm trữ chưa hợp lý: Lúa còn rớt mạnh
Theo VFA, sau 6 tuần triển khai, kể từ ngày 20/2, việc triển khai cho các doanh nghiệp (DN) thành viên thu mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo (tương đương khoảng 2 triệu tấn lúa) đã hoàn thành. Thế nhưng, chính sách này chẳng cải thiện được giá lúa ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Không những thế, thời gian tới, giá lúa ở khu vực này sẽ còn giảm nữa.
Ông Nguyễn Đình Bích nhận định, thu hoạch lúa ở ĐBSCL thường diễn ra trong vòng 3 tháng. Riêng vụ Đông Xuân này, cả khu vực gieo cấy 1.530.000 ha lúa nhưng tính đến 21/3, khi việc thu mua tạm trữ đã sắp kết thúc, người dân mới thu hoạch được khoảng 400.000 ha, tương đương 26% diện tích.
“Mùa vụ kéo dài, việc thu mua tạm trữ chỉ tiến hành trong thời gian ngắn, giá lúa thời gian tới sẽ còn giảm mạnh là điều đương nhiên”, ông Bích nói.
Điều nghịch lý đã xảy ra ở vụ lúa Đông Xuân này, thương lái chủ yếu mua lúa IR 50404, khiến các loại lúa chất lượng cao và lúa thơm khó bán, giá cả thấp hơn so với các năm. Năm 2012 và những năm trước, các thành viên VFA liên tục cảnh báo, người nông dân trồng lúa phẩm cấp thấp nhiều, khó cạnh tranh.
Nghịch lý là khi người nông dân chuyển sang trồng lúa chất lượng cao thì không bán được. Thạc sĩ Nguyễn Hữu An, Chi cục trưởng Chi cục BVTV An Giang lo ngại: "Khó khăn lắm ngành nông nghiệp An Giang mới thuyết phục nông dân trồng lúa chất lượng cao để giảm diện tích lúa IR 50404 xuống dưới 10% tổng diện tích. Nay DN thu mua IR 50404, tôi e rằng vụ hè thu tới, nông dân đua nhau trồng giống lúa này, đến khi thu hoạch lại bán không được, chưa kể dịch bệnh gây hại khôn lường”.
Còn Phó giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh An Giang, ông Đoàn Ngọc Phả, phản ánh: Đề án xây dựng thương hiệu gạo quốc gia, các loại gạo đặc sản, gạo thơm khuyến cáo nông dân trồng các loại lúa này, nhưng đến khi thu hoạch doanh nghiệp lại không mua.
“Họ nói cứ nói chứ thực tế thế nào thì mặc kệ nông dân”, một người trồng lúa ở Thốt Nốt (Cần Thơ) bức xúc. Theo ông, năng suất thấp hơn hẳn giống lúa thường, thời gian canh tác dài ngày hơn, công chăm sóc nhiều hơn… trong khi giá bán chỉ cao hơn khoảng 200 đ/kg nên vụ này, người trồng lúa chất lượng cao, lúa thơm “lãnh đủ”.
Gạo Thái Lan không thể cạnh tranh được với Việt Nam
“Nhận diện đối thủ xuất khẩu gạo của Việt Nam, chỉ nên nhìn nhận Ấn Độ và Pakistan, một phần nào đó là Myanmar (trong tương lai). Việc đưa Thái Lan vào danh sách đối thủ cạnh tranh hoặc là thiếu hiểu biết hoặc là cố tình biến họ với vị thế quốc gia xuất khẩu gạo số một thế giới thành “ông kẹ” để dọa nông dân”.
Dự báo lúa gạo thế giới lâu nay vẫn trông chờ vào nguồn tương đối chính xác là từ Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA). Sở dĩ cơ quan này dự báo tương đối chính xác do họ thu thập được thông tin khá đầy đủ về: Nguồn cung (diện tích lúa của từng quốc gia tăng, giảm; sản lượng; dự báo thời tiết và tác động của thời tiết đến mùa vụ); Cầu (thống kê nhập khẩu từng năm, khả năng tự túc lương thực… của mỗi quốc gia). Các thống kê của USDA cho thấy cung – cầu lúa gạo thế giới năm nay không có nhiều biến động so với năm trước. |
Vì sao vậy?. Các chuyên gia độc lập cho rằng, có thể VFA lo ngại Thái Lan sẽ “bung” hàng. Chính sách trợ giá lúa gạo là thế mạnh bầu cử chính của Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra khi đảng của bà giành thắng lợi áp đảo trong cuộc bầu cử diễn ra vào tháng 7/2011. Bà Yingluck đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của tầng lớp nông dân và nhân dân lao động bị thu hút bởi chính sách hỗ trợ dân nghèo. Và chính sách này bắt đầu thực hiện từ tháng 10/2011.
Nhờ chính sách này, giá lúa thu mua của Thái Lan đã tăng gần gấp đôi so với trước đó ít ngày, lên 750 – hơn 800 USD/tấn. Thái Lan đã chi tới 300 tỷ Baht từ tháng 10/2011 – 9/2012 cho chương trình này. Bộ trưởng Bộ Thương mại Thái Lan, ông Boonsong Teriyapirom, ngày 9/10/2012 đã công bố trước báo giới rằng, họ thua lỗ khoảng 80 tỷ Baht, tương đương 2,61 tỷ USD, từ chương trình can thiệp thị trường lúa gạo.
Đó là ở thời điểm tháng 10/2012, thu mua tạm trữ của Thái Lan đã đạt con số kỷ lục: 12 triệu tấn quy gạo. Sau đó, Chính phủ Thái Lan tiếp tục công bố khoản ngân sách ban đầu được thông qua là 240 tỷ Baht để can thiệp thị trường trong niên vụ 2012-2013. Còn thống kê mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho thấy: Từ tháng 10/2011 đến trung tuần tháng 2/2013, Chính phủ Thái Lan đã mua gần 32 triệu tấn lúa, tương ứng gần 21 triệu tấn gạo. Trong khi đó, theo Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan, cũng trong thời gian đó, Chính phủ nước này đã mua được 29,65 triệu tấn lúa, tương ứng với 19,6 triệu tấn gạo.
Nếu “bung” hàng, Chính phủ của bà Yingluck thừa nhận chính sách hỗ trợ lúa gạo là sai lầm. Mà thời điểm này, khả năng trên là rất thấp.
Trường hợp họ “bung” hàng thì cũng không thể cạnh tranh với giá lúa của Việt Nam
Giá gạo 5% tấm Thái Lan ở thời điểm kết thúc tháng 3 bình quân 554 USD/tấn so với 400 USD/tấn của Việt Nam, 154 USD là khoảng cách vốn đã rất an toàn trong điều kiện bình thường. Không dễ gì nhà nhập khẩu quay lưng lại với gạo Việt Nam để nhập của Thái.
Hơn nữa, với giá trên, lợi nhuận của Thái Lan đã rất thấp nếu so với Việt Nam: Gạo Thái Lan là gạo có chất lượng cao nên phải canh tác bằng loại giống dài ngày, năng suất thấp, chi phí lao động vốn đã cao so với lúa thường lại càng cao hơn khi so sánh với chi phí lao động ở Việt Nam. Quan trọng nhất, chấp nhận bán giá 554 USD, Thái Lan đã lỗ rất nặng so với giá mua vào tối thiểu là 750 USD/tấn.
Chỉ còn Ấn Độ và Pakistan là hai đối thủ chính. Nhu cầu thị trường thế giới tương đối ổn định với các khách hàng tương đối định hình, giá thế giới không biến động lớn (so sánh ở gạo 5% tấm). Trong tháng 1, gạo Ấn Độ đạt 432 USD/tấn và tăng lên 445 rồi 446 tấn trong hai tháng 2 -3 và giảm nhẹ xuống 445 USD kết thúc ngày 4/4. Gạo Pakistan cũng có diễn biến tương tự, từ 423 USD lên 430 rồi 433 USD và giảm xuống 430 USD cũng trong ngày 4/4. Chỉ có gạo Việt Nam đi theo biểu đồ ngược lại: 402 – 404 – 400 – 390 USD/tấn(?!)
Thành Lân
Đón đọc bài 2: Thương nhân Trung Quốc không phải là “ngoáo ộp”.