Hàng rẻ nhờ kích cầu, chưa thể có ngay

Mục tiêu của gói kích cầu bù lãi suất 4% nhằm vào việc nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam, góp phần hạ giá thành sản phẩm. Không hy vọng  gói kích cầu này tạo ngay ra đột phá. Nhưng mong đợi giúp doanh nghiệp có được hàng hóa với giá thành hạ, rẻ cũng chưa thể có ngay được.

Hàng giá rẻ chưa nhiều

 

Lý do là chính sách bao giờ cũng có độ trễ khoảng 6 tháng, trong khi chính sách hỗ trợ lãi suất mới thực hiện được 2 tháng. Hơn nữa, ở thời điểm hiện tại, có lẽ sự trì hoãn hiệu quả của chính sách còn lâu hơn do ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế thế giới và bối cảnh khó khăn chung.

 

Chí ít lúc này chính sách hỗ trợ lãi suất cũng giúp doanh nghiệp cầm cự được trong lúc khó khăn khi không có thị trường, hàng hóa không bán được. Khảo sát của Chi nhánh ngân hàng Nhà nước tại tỉnh Phú Thọ cho thấy, sau khi được vay vốn hỗ trợ lãi suất, một số doanh nghiệp từ chỗ tạm dừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng đã trở lại sản xuất, công nhân không phải nghỉ việc thêm hoặc giảm ca, giá thành sản phẩm giảm nhẹ, tiêu thụ hàng hóa tốt hơn.

 

Giá cả nhiều mặt hàng thời gian vừa qua cũng rẻ hơn. Hàng điện tử, đồ gia dụng, ô tô,... là những mặt hàng có mức giảm giá ấn tượng nhất trên thị trường. Tuy nhiên, điều đáng nói là những mặt hàng có mức giá hấp dẫn hoặc hoàn toàn là hàng nhập khẩu, hoặc có tỷ lệ nội địa hóa rất thấp.

 

Chủ yếu, các mặt hàng được bán với giá rẻ là nhờ thay đổi chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc doanh nghiệp mạnh tay khuyến mại, giảm giá, chấp nhận “cắt lỗ” chứ không phải do chi phí đầu tư thấp vì được vay nguồn vốn giá rẻ.

 

Bởi thế, nhìn rộng ra phải thừa nhận chính sách kích cầu với biện pháp lãi suất mới chỉ phần nào tác động đến việc giúp doanh nghiệp Việt Nam tạo ra hàng hóa giá rẻ, tăng sức cạnh tranh ngay tại sân nhà, vốn chịu sức ép lớn từ hàng hóa Trung Quốc có ưu thế lớn về giá cả. Cũng bởi vì ngoài việc chính sách luôn có độ trễ, nguồn vốn hỗ trợ lãi suất được giải ngân không hoàn toàn đồng thời là dư nợ tín dụng tăng thêm. Nhiều ý kiến lo ngại nguồn vốn hỗ trợ lãi suất được giải ngân mới chủ yếu để dành đảo nợ, chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, chưa chảy vào hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Điều này cũng có nghĩa là ý nghĩa giúp doanh nghiệp đầu tư để có được hàng hóa giá rẻ chưa nhiều.

 

Đối mặt thế nào với sức ép?

 

Khi khó khăn chung, việc giảm giá hàng hóa là động thái thường thấy ở các hãng sản xuất trên toàn thế giới, đặc biệt là các doanh nghiệp Trung Quốc. Nhiều cảnh báo được đưa ra trong khi thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, sức mua giảm, Trung Quốc - đại công xưởng của thế giới đang có một lượng hàng hóa tồn đọng lớn không xuất khẩu được rất có thể sẽ tràn sang Việt Nam dưới dạng hàng giảm giá, thanh lý. Sức ép lớn với doanh nghiệp Việt Nam là từ đấy, nhất là khi Việt Nam có đường biên giới rộng nhưng còn nhiều yếu kém trong việc chống buôn lậu.

 

Trong khi đó những biện pháp bảo hộ mậu dịch được xem là cách giúp doanh nghiệp chống đỡ với sức ép từ bên ngoài  không phải lúc nào cũng hiệu quả. Hàng rào thuế quan vốn được coi là con dao hai lưỡi và hơn nữa cũng chỉ có tác dụng trong thời hạn nhất định, mặt hàng nhất định vì phụ thuộc vào những cam kết thương mại. Việc lập hàng rào kỹ thuật cũng không thể một sớm một chiều mà làm được.

 

Đây là thời điểm cần những giải pháp hết sức sáng tạo và chính sách sẽ hoàn hảo hơn nếu tập trung khuyến khích, doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa ở trong nước. Thay vì chỉ hướng ngoại, khuyến khích không gì bằng việc sản xuất hàng tiêu dùng trong nước cũng phải được hưởng ưu đãi giống như làm hàng xuất khẩu. Bản thân doanh nghiệp lúc này, khi thương trường có bão tố, không thể kinh doanh như bình thường, phải có chiến lược đối phó với bão tố.

 

Khủng hoảng chính là lúc sức ép cạnh tranh mạnh hơn bao giờ hết. Để kích cầu tiêu dùng trong bối cảnh suy giảm kinh tế hiện nay, doanh nghiệp phải nhìn nhận được mức giá họ đang bán rất cao nếu so sánh với mức thu nhập của người dân, trong khi thị trường đã mở cửa, nhiều sản phẩm ngoại tràn vào Việt Nam với giá thấp hơn. Để tồn tại, tiếp tục quay vòng sản xuất, doanh nghiệp phải nghĩ cách giải phóng hàng, kích thích tiêu dùng bằng cách đơn giản nhất: giảm giá, bớt lợi nhuận.

 

 

Những ngành hàng như dệt may, da giày, khả năng cạnh tranh tương đối tốt, tạo dựng được chỗ đứng trên thương trường. Tuy nhiên, nói về ngành hàng dệt may, PGS. TS Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính trị thế giới nhìn nhận rằng nhu cầu thị trường nội địa và nước ngoài khác nhau. Nếu doanh nghiệp vẫn áp đặt tư duy kinh doanh theo kiểu chờ đợi đơn hàng thì sẽ thất bại hoàn toàn khi tiến vào thị trường nội. Quay về thị trường nội địa nhưng nếu hàng dệt may cứ áp dụng cách thức cũ, với giá cả như thị trường nước ngoài thì sẽ rất khó bởi lẽ là túi tiền của khách hàng nội vơi hơn.

 

Trong lúc này, doanh nghiệp tất phải có điều chỉnh trong chiến lược kinh doanh nhưng người tiêu dùng nên có những lựa chọn khôn ngoan. Nhiều ý kiến cho rằng không quá lo ngại về việc hàng giá rẻ của Trung Quốc tràn vào Việt Nam trong thời gian tới. Bởi không phải đến giờ hàng Trung Quốc mới rẻ và người tiêu dùng cũng đã khôn ngoan hơn, họ thích rẻ nhưng chất lượng hàng hóa cũng không thể quá tồi được.

 

Nhưng dù gì đi nữa, cùng với sức ép từ đối thủ lớn Trung Quốc, doanh nghiệp Việt Nam bắt buộc phải giải bài toán “thắt lưng buộc bụng”, giảm giá thành cho phù hợp với túi tiền đang eo hẹp của người tiêu dùng nội địa.

 

Nguyễn Huyền