Hạn chế rủi ro cho người kết hôn với người nước ngoài
Việc kết hôn với người nước ngoài không còn là “hiện tượng lạ”. Tuy nhiên, ẩn sau các cuộc hôn nhân “hội nhập” này là những vấn đề xã hội đặt ra, cần được pháp luật điều chỉnh để “hạn chế rủi ro” tối đa…
Việc kết hôn với người nước ngoài không còn là “hiện tượng lạ”. Tuy nhiên, ẩn sau các cuộc hôn nhân “hội nhập” này là những vấn đề xã hội đặt ra, cần được pháp luật điều chỉnh để “hạn chế rủi ro” tối đa…

Cuộc sống hạnh phúc của người mẫu Phi Thanh Vân bên người chồng nước ngoài. Ảnh minh họa.
Ông Nguyễn Quốc Cường, Phó Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp (Bộ Tư pháp), cho biết, Nghị định 68/2002/NĐ-CP (ngày 10/7/2002) của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và Nghị định 69/2006/NĐ-CP (ngày 21/7/2006) của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 68, đến nay cần được sửa đổi, bổ sung, tập trung vào các vấn đề cấp bách, nhằm chấn chỉnh quản lý Nhà nước đối với việc kết hôn quốc tế của công dân Việt Nam.
Hiện nay, thẩm quyền ký giấy chứng nhận đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài được qui định là của UBND cấp tỉnh. Thực tế, mọi quá trình trong việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho công dân với người nước ngoài chủ yếu là do Sở Tư pháp tiến hành, lãnh đạo UBND cấp tỉnh chỉ ký về hình thức theo hồ sơ do Sở Tư pháp trình lên.
Do vậy, cần tiếp tục phân cấp, cho phép UBND cấp tỉnh ủy quyền cho Sở Tư pháp ký giấy chứng nhận đăng ký cho công dân kết hôn với người nước ngoài, để đảm bảo tính thực chất, nhanh chóng hơn do không cần chờ lãnh đạo UBND cấp tỉnh ký, đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính.
Từ thực tế giải quyết yêu cầu đăng ký kết hôn với người nước ngoài ở Hà Nội, đại diện Sở Tư pháp Hà Nội cho biết, “sức ép” về thời gian giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn với người nước ngoài là rất lớn. Có ngày, Sở nhận 20 hồ sơ nhưng mỗi cán bộ chỉ có thể phỏng vấn 2 trường hợp/ngày. Từ đó “chuyện tiêu cực” là đương nhiên khi người có yêu cầu đăng ký kết hôn đều muốn được giải quyết nhanh.
Vì thế, có ý kiến đề xuất bỏ thủ tục phỏng vấn đối với những người đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài vì thủ tục này trong thực tế rất hình thức, kém hiệu quả, lại mất thời gian và tiền bạc (trả tiền thuê phiên dịch) của đương sự. Bên cạnh đó, không thể cho phép kết hôn vắng mặt vì sẽ gây ra nhiều vấn đề phức tạp.
Xác nhận tình trạng hôn nhân như thế nào?
Một qui định đang gây khó dễ cho công dân Việt
Nhưng khi cần kết hôn, họ phải quay về UBND cấp xã nơi họ có hộ khẩu thường trú để xác nhận tình trạng hôn nhân. Điều đó gây khó cho cả cán bộ vì không biết đâu mà xác nhận, và cả người dân vì không có xác nhận thì không thể kết hôn.
Trong khi đó, một số người Việt
Dự kiến, sẽ qui định, trường hợp người Việt
Nếu đã kết hôn hoặc xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 3/1/1987 ở Việt Nam, thì Sở Tư pháp yêu cầu họ phải chứng minh đã chấm dứt quan hệ hôn nhân đó bằng án hay quyết định ly hôn đã có có hiệu lực pháp luật (nếu đã ly hôn) hoặc Giấy chứng tử (nếu vợ hoặc chồng của họ đã chết).
Trường hợp công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài cư trú tại nhiều nước từ khi đủ tuổi kết hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam, thì hồ sơ cần phải có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân tại nước hiện tại đang cư trú và bản cam đoan về tình trạng hôn nhân tại các nước còn lại.
Đồng thời, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ khi giải quyết hồ sơ đăng ký kết kết hôn có yếu tố nước ngoài, cần yêu cầu người nước ngoài có quốc tịch ở một nữa nhưng thường trú ở một nước khác thì chỉ cần có xác nhận tình trạng hôn nhân của cơ quan có thẩm quyền của nước, nơi người đó thường trú.
Nhưng theo đại diện Vụ Pháp luật Dân sự Kinh tế (Bộ Tư pháp) thì việc yêu cầu “công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài cư trú tại nhiều nước từ khi đủ tuổi kết hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam, thì hồ sơ cần phải có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân tại nước hiện tại đang cư trú” có thể gây khó khăn cho người dân vì nhiều nước không có qui định về xác nhận tình trạng hôn nhân, mà chỉ đăng ký kết hôn theo cam kết của người yêu cầu.