Những câu chuyện dưới đây vẫn được kể lại theo ghi chép trong “Y dương án”, tiếp tục là các minh chứng sống động về tài năng của một con người luôn hết lòng vì bệnh nhân…
Cứu thai phụ trúng thực đang nguy cấp
Vợ một viên tướng quân ở Vĩnh Dinh, trấn Nghệ An đang có thai ở tháng thứ 8. Một hôm, người này ăn cua bể rồi bị trúng thực, bụng đau dữ dội, chân tay giá lạnh, trong bụng nóng như lửa đốt, muốn nôn nhưng không nôn được, thai trồi lên gần ngực, bụng thóp lại và cồn cào như đang đói lắm, thắt lưng đau như dao cắt dùi đâm, đứng ngồi đều phải có người nâng đỡ. Viên tướng quân sợ quá, vội chạy gấp đến mời Lãn Ông, lúc ấy cũng đang làm việc ở Vĩnh Dinh.
Lãn Ông đến thì thấy người bệnh đã rụt lưỡi, thâm môi, nói năng lảm nhảm, khi bắt 6 bộ mạch thì chỉ hai bộ mạch còn khá bình thường. Lãn Ông biết rằng bệnh nhân đang trong tình trạng nguy cấp, nếu dùng những phương thuốc thông thường để tiêu trừ các chứng như đau bụng, buồn nôn thì không có hiệu quả.
Vả lại, cua bể vẫn tích trong dạ dày, bào thai đang trồi lên gần ngực nên càng không thể dùng thuốc an thai hoặc bồi bổ cơ thể được. Cách tốt nhất là phải quyền biến, trước tiên dùng thuốc công hạ để tiêu trừ thức ăn còn tích trong dạ dày thì mới xong.
Hải Thượng Lãn Ông luôn miệt mài nghiên cứu thảo dược (Hình minh hoạ) |
Người chồng thấy vợ đang nguy kịch, rơm rớm nước mắt xin Lãn Ông cho thuốc bỏ thai để cứu vợ. Nhưng Lãn Ông quả quyết không nghe vì như thế sẽ hại cả con lẫn mẹ. Xong rồi ông bốc thang thuốc “Điều vị thừa khí”, đun sôi vài lần, đồng thời, dùng Đại hoàng tẩm rượu đem nướng chín rồi mài hoà vào thuốc vừa đun và cho bệnh nhân uống. Thai phụ vừa uống xong đã thấy bụng sôi réo, Lãn Ông giục người nhà cho uống thêm chén thuốc nữa.
Một lúc sau, bụng thai phụ sôi ục một tiếng, rồi đại tiện ra toàn nước vàng cùng với thức ăn tích lại từ trước. Lãn Ông bảo người nhà thăm lại thai thì thấy nó đã trở về chỗ cũ. Người bệnh lúc ấy mới kêu to rằng: “Bây giờ tôi mới biết là sống, đau khỏi rồi và bụng đã dễ chịu”. Kế đó, Lãn Ông bốc thang thuốc “Phụ tử Lí trung” rồi sắc cho uống nước đầu, tiếp dùng những vị thuốc là Sâm truật, Phục linh, Sa nhân, Chích thảo đem sắc lên cho uống. Vài ngày sau, các chứng bệnh tan biến, thai phụ khỏi hẳn.
Lãn Ông cho biết, chứng bệnh của thai phụ trong ngàn người mới có một nên phải có cách chữa quyền biến. Ông giải thích cách chữa của mình như sau: “Bệnh án này của tôi là bất đắc dĩ phải tòng quyền, lấy ngọn làm gốc, lấy công làm bổ, mục đích là đuổi tà để giúp chính, cũng gọi là cẩn thận khi suy nghĩ, quả quyết khi hành động, tâm bé mà đảm to. Lúc đầu cho là vì thực tích mà gây ra bụng đầy, thai vượt lên thì lại cho thực tích là gốc bệnh.
Thai vốn là ngọn, phải tiêu tích để giữ thai, đó cũng là mượn phép công làm bổ. Kế đó cho uống bài “Lí trung”, một mặt để trừ chất hàn độc của cua bể, một mặt để làm ấm Trung châu (tức làm ấm cơ thể) sau khi đã vong dương và lại giải được tính tẩy rửa của Đại hoàng. Cuối cùng dùng thuốc để ôn dưỡng tì vị, điều dưỡng thai mà được công hiệu…”.
Cứu người bị cảm mạo động thai
Vợ một người đánh cá có thai được 7 tháng, một hôm bị cảm mạo nóng lạnh như bệnh sốt rét, nhức đầu đau mình đã gần 20 ngày. Vì người nóng sốt quá nên bị động thai, đau bụng, người buồn bực và rất khát nước, khi nằm hay ngồi đều khó cử động.
Gia đình người này đã hai lần mời thầy thuốc nhưng chữa không khỏi. Thầy thuốc thứ nhất bảo là thai bị tuột xuống, dùng thuốc đưa thai lên thì thai trồi lên tận ngực mà người bệnh càng đau hơn. Thầy thuốc thứ hai cho thuốc giáng thai thì thai tuột xuống tận dưới rốn, người bệnh đau dữ dội hơn, tiểu tiện đều bí, khó chịu hơn khi thai trồi lên.
Ông thầy này cho là thai hạ thái quá, bèn cho thuốc thăng lên, thăng lên vẫn không khỏi lại cho thuốc để thăng lên nữa; khi thăng mạnh mà không khỏi lại cho rằng phải an thai mới xong, nhưng qua vài thang an thai bệnh nhân vẫn không khỏi, càng đau tức hơn mà thai vẫn cứ trệ xuống.
Chồng thai phụ cùng đường mới đến mời Lãn Ông. Nghe kể mọi chuyện, Lãn Ông cười lớn rồi bảo rằng: “Đáng thương cho đứa trẻ này, chỉ trùng trục một khối thịt, chẳng biết hay dở, cũng không hay ghét ưa, khác nào như trâu như ngựa, mặc người lôi dắt, nâng thì lên kéo thì xuống, thực vất vả nhỉ. Sao thầy lang lại không hiểu nghĩa Nội kinh đã nói:
“Phàm vì bệnh mà động thai thì chữa bệnh khỏi là thai yên; vì động thai mà sinh bệnh thì an thai là bệnh khỏi”. Nay vì cảm mạo nóng quá sinh ra động thai thì nên chữa bệnh là thai tự khắc yên, can gì lại dùng tì vị làm chiến trường, thai nguyên làm bóng đá mà tung lên ném xuống như vậy”.
Sau đó Lãn Ông đến thăm bệnh, biết người này đã 42 tuổi, sinh đẻ nhiều lần, thân thể đen gầy, tóc khô mặt nhăn, là biểu hiện của cơ thể hư nhược, khí lực suy kiệt. Ông liền chế thang thuốc “Lục vị hoàn”, cho thêm những vị Sài hồ, Bạch thược, Tri mẫu, Hoàng bá để trị các chứng cảm mạo, tăng cường khí lực cho cơ thể. Thai phụ uống hết một thang thì chứng nóng lạnh đều hết, thai hơi yên.
Kế đó, ông cho uống thang “Bổ trung Bội thăng ma” để đưa thai lên; thai tuy đã lên nhưng người bệnh tiểu tiện vẫn không bình thường. Ông lại theo phương thuốc “Lục vị hoàn” có gia giảm thêm một số vị thuốc sao cho sát hợp với tình hình của bệnh nhân, sắc lên tiếp tục cho uống, cuối cùng lại cho uống thêm Sâm truật để điều dưỡng tì vị. Chưa đầy 10 ngày sau, thai phụ được lành mạnh như trước.
Cứu người sinh non, thai không ra
Trong xóm của Hải Thượng Lãn Ông có một người tên là Liên. Vợ người này đang mang thai ở tháng thứ 5 thì mắc chứng hoặc nóng rét, hoặc ho, hoặc đau bụng khiến đại tiểu tiện đều khó khăn, các biến chứng sinh ra lung tung không sao kể hết. Cứ như vậy kéo dài đã hơn một tháng mà bệnh ngày thêm nặng, người nhà mời Lãn Ông đến chữa.
Lãn Ông luôn biết tuỳ bệnh nhân mà điều thuốc (Hình minh hoạ) |
Lãn Ông thăm bệnh thì thấy các ác chứng đã biểu hiện rất nhiều nên không dám chữa các chứng lặt vặt, chỉ chuyên chú vào chữa căn bản, tức làm sao cho người phụ nữ này khoẻ mạnh lên vì chị ta vốn thể chất yếu đuối. Ông kê các loại thuốc như Sâm, Kì, Can khương, Chính thảo để bồi bổ cho người bệnh, ngày đêm cho uống liên tục. Khoảng 5, 6 tuần sau thì cơ thể thai phụ khoẻ dần, các chứng bệnh đều tan biến.
Chợt một hôm, người này tự nhiên đau bụng, đến nửa ngày thì vỡ ối, ra nhiều nước. Người nhà đến báo tin. Lãn Ông căn dặn không được rặn, không để bà đỡ xoa nắn trên bụng, đồng thời, cứ cho uống toa thuốc bổ khí huyết như thường lệ. Tuy nhiên, thai phụ vẫn đau bụng lâm râm suốt một ngày đêm, đã thế, thai dường như không động đậy, bệnh nhân mỏi mệt, hơi thở yếu dần và chuyển sang hôn mê. Người nhà cho là thai đã hư, liền mời Lãn Ông sang gấp để giúp bỏ thai cứu mẹ.
Lãn Ông đến khám thì thấy màu sắc của môi, miệng và lưỡi vẫn bình thường, các bộ mạch vẫn có lực, tuy nhiên, người bệnh lại thường ợ hơi lạnh. Lãn Ông biết đó là do nguyên khí hư tổn sau một thời gian ốm nặng, nhưng thai chưa đến nỗi gặp nguy. Ban đầu, ông định tiếp tục kê thuốc để bồi dưỡng nguyên khí, nhưng như thế thì không thể giúp người bệnh mau sinh, trong khi triệu chứng sinh non đang hiển hiện.
Bởi vậy, ông quyết định dùng loại thuốc tuy vẫn giúp bồi bổ thuỷ hoả cho bệnh nhân nhưng lại có tác dụng kích thích sinh nở, khiến tinh thần người mẹ và đứa trẻ trong bụng đều khoan khoái, cơ bụng người mẹ co bóp mạnh hơn để đứa trẻ mau chóng chào đời. Ông dùng một thang thuốc lớn, lấy bài “Bát vị hoàn” làm chủ, cho thêm nhiều Ngưu tất rồi sắc đặc, cho uống kèm với Sâm. Quả nhiên người bệnh uống xong liền sinh.
Trong lần chữa bệnh này, Hải Thượng Lãn Ông lại một lần nữa điều trị vượt ra ngoài khuôn phép thông thường, tập trung tất cả tinh thần và hiểu biết để cứu giúp người bệnh. Sau khi chép lại chuyện này, ông đã viết những lời rất chân tình rằng: “Nếu không bạo gan, không vững lập trường mà nghe lời xui giục thì giữ toàn được cả hai mạng thực cũng khó lắm. Thầy thuốc giữ tính mạng người, há lại không cẩn thận sao?”.