Hai cô giáo trên đỉnh Pô Kadong
Khi bình minh còn đang ló rạng, đỉnh núi Pô Kadong còn đang thiêm thiếp trong tấm chăn mây mù, con sông Đắc My chảy lờ đờ như còn ngái ngủ ...
Khi bình minh còn đang ló rạng, đỉnh núi Pô Kadong còn đang thiêm thiếp trong tấm chăn mây mù, con sông Đắc My chảy lờ đờ như còn ngái ngủ lúc đó, Hồ Thị Hạnh đã thức giấc. Cái rét buốt nơi có độ cao 1780m so với mặt nước biển ở huyện miền núi vùng cao Phước Sơn, Quảng Nam này rất khắc nghiệt, khiến cô giáo trẻ người Kinh từ đồng bằng xung phong lên công tác phải rùng mình. Trong nếp nhà thấp lè tè của làng người Bhnoong thuộc xã Phước Thành, Phước Sơn lấp lánh những ánh lửa, mùi khói, mùi tro củi, khói bụi ngai ngái. Rồi những em bé Bhnoong, Cadong co ro trong cái lạnh của những ngày cuối đông ở vùng cao này, các em vừa đi, vừa giụi mắt, i ới gọi nhau: “Tập thể dục đi”, cô giáo Hạnh gọi rồi đấy!..”.
Một ngày mới cô giáo Hạnh đang bắt đầu như vậy đấy.
Sinh ra và lớn lên ở xã Bình Trị, huyện Thăng Bình, Quảng Nam, nơi có trường Trung học phổ thông rất xa, hơn chục cây số, tuổi thơ của Hạnh là những tháng, ngày gian khó lên rừng kiếm củi, chăn bò, đi lại những con đường mòn im lìm cây lá. Vì vậy, mà khi được đi học rồi trở thành cô giáo, việc được đứng trên bục giảng với Hạnh, là đã có được niềm hạnh phúc đến ngỡ ngàng, bởi đời sống cha mẹ của cô còn lắm gian nan, nhọc nhằn. Hạnh kể lại cho tôi nghe, có lần những năm trước đây, cô hỏi học trò:
- Lớp mình, nhà em nào có cơm nếp?
Không em nào giơ tay.
-Thế nhà ai có cơm?
Cũng không em nào giơ tay.
- Đến bữa ăn các em ăn gì?
Duy nhất em học sinh con ông trưởng thôn, gia đình thuộc loại khá giả rụt rè: - Nhà em ăn cơm không độn.
Đến giờ Hạnh bảo, nhiều bữa ăn thường xuyên vẫn chỉ là cơm, canh rau và muối ớt. Các em bé buổi sáng đến trường, thường mang theo một nắm cơm, thế là may lắm. Nhiều em bé còn nhịn đói. Nhưng đối mặt đầu tiên của Hạnh chưa phải là dạy chữ, mà là cái lạnh, cái rét của trẻ trên vùng cao này thật là khủng khiếp. Vì thế tôi hỏi Hạnh: “Kỷ niệm dạy học cô giáo, nhớ nhất điều gì?” Hạnh nói: “Nhớ nhất là những em bé đến trường phong phanh chỉ một chiếc áo mỏng, nhiều em còn đi chân đất, thương lắm anh ạ!”. Như cô bé Hồ Thị Như, ở ngay làng Trà Va này thôi, nhà quá nghèo, cha mẹ lại bỏ nhau. Như phải đến ở với ông bà ngoại. Nhà bà ngoại có hơn gì. Nhiều hôm cô bé đến trường, mặt môi tím tái vì cái rét, Hạnh phải lấy quần áo của con mình cho Như mặc. Những ngày đông giá Hạnh đốt một đống lửa giữa lớp cho cả cô và trò có chút ấm áp để ngồi học.
Đến việc dạy trẻ vùng cao cũng chả giống ai. Các em đều là người dân tộc Bhnoong, Ca dong, còn chương trình, sách giáo khoa bắt buộc phải dùng tiếng việt. Thế là Hạnh phải dùng cả hai, ba thứ tiếng bổ sung cho nhau để trẻ có thể hiểu nghĩa. Cô và trò cứ như đánh vật với chữ, và nghĩa, với những phép tính đơn giản. Trẻ em dân tộc thiểu số nhút nhát lắm. Thằng bé Hồ Văn Hẻ dạy mãi mà cũng không viết được, vì không chịu bắt chước cô giáo. Hạnh hỏi, thằng bé òa khóc: “Em không biết viết cái này. Em không bắt chước được. Em chỉ biết bẫy con chuột thôi!”. Cô giáo Hạnh dỗ dành: “Thì mình hãy làm thử như bẫy chuột được không, phải theo đường đi của con chuột nhé. Những dòng kẻ là đường đi của con chuột. Mình sẽ viết cái chữ theo dòng kẻ này...”. Dần dà những con chữ đi theo dòng kẻ của Hẻ. Còn Hẻ đi theo “dòng kẻ” của cô giáo Hạnh. Nay cả Hồ Thị Như và Hồ Văn Hẻ đến năm học 2009-2010 này, đều đã lên học lớp 6 rồi đấy.
![]() |
| Tận tâm nắn từng nét chữ |
Đã bao mùa rẫy đi qua, là bao nhiêu lần bông hoa rừng bên con suối Đắc My nở, Hạnh chẳng nhớ nổi. Nhưng Hạnh nhớ rất rõ ngóc ngách các nóc nhà của người Bhnoong, Ca dong ở các thôn, làng ở vùng cao này phải qua nhiều con suối, qua mấy ngọn núi. Bước chân của Hạnh quá quen với con đường mòn, con đường rừng, con đường tắt đi dấn mỗi nóc nhà, vận động các ông bố, (cha) bà mâm, (mẹ) để các em bé được đến lớp. Có dạy học ở vùng cao, xã Phước Thành, Phước Lộc, huyện Phước Sơn này, cái tên huyện thôi đã nghe thấy cao, thấy núi, thấy xa mờ mịt, Hạnh thấy thấm thía một điều chưa bao giờ cô đã nghĩ đến, cũng chưa có nhà trường sư phạm nào dạy. Đó là trước khi làm cô giáo dạy chữ, phải biết làm một cán bộ và biết vận động dân làng. Trước khi đứng trên bục giảng, đôi chân phải biết đi bộ, phải biết đạp lên trên những ngọn núi, biết lội qua những con sông, con suối. Cái danh hiệu giáo viên giỏi cấp huyện, danh hiệu giỏi việc trường, đảm việc nhà mà Hạnh được bầu bạn trong trường tặng thấm đẫm không chỉ biết bao mồ hôi và sức lao động, mà là cả nghị lực vượt khó và tình yêu với con người, rồi đến niềm yêu thương những đứa trẻ.
Cách nơi Hồ Thị Hạnh đang dạy vài chục cây số, về phía Tây trên đỉnh Pô kadong có một cô giáo cũng đang làm những công việc thầm lặng như Hạnh. Đó là Phạm Thị Hồng Phương, cô giáo quê ở Tiên Cảnh, Tiên Phước, Quảng Nam, can đảm bám trụ giữa nơi thâm sơn cùng cốc xã Phước Lộc heo hút này. Cũng như Hạnh, bàn chân cô giáo Phương thuộc lòng từng lối mòn, khe suối, mỗi nóc nhà ở những thôn, làng nghe như trong truyện cổ tích: đỉnh núi thôn Kết đích, Lô lố, Pael... để vận động các em bé dân tộc Bhnoong, Ca dong đến lớp. Nhưng Phạm Thị Hồng Phương còn gian khổ hơn cả Hồ Thị Hạnh, bởi nơi đây núi rừng càng heo hút hơn, không điện, không đài, không quạt, không ti vi. Hẳn những ngọn núi cao, những con suối sâu, những con sông dài mà Phương đã trèo, đã lội qua, chỉ có trong những trang văn, trang sách của tuổi học trò ở phổ thông, giờ đây, trong trí tưởng tượng lãng mạn của một thời thiếu nữ. Giờ những thôn, những làng, những núi cao, con sông rộng, những suối sâu ấy đã trở thành một phần máu thịt trong cuộc đời của cô rồi.
Cái cách Phương giữ học trò, “dụ” học trò đến lớp thật là đặc biệt, thật bất ngờ, nhưng cũng rất dễ thương. Dạo đó nhiều nhà ở làng Pael bị đói, thương trò quá, cứ buổi sáng cô giáo Phương dạy học, buổi chiều lên nương, rẫy trồng sắn, bắp, như mọi người đàn bà Bhnoong, Cadong tần tảo chịu thương, chịu khó “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Thu hoạch rồi hôm nào Phương cũng thức dậy sớm, nấu củ sắn mang lên lớp. Bọn trẻ lớp ghép ở bậc tiểu học miền núi đã quá quen cái hình ảnh “mẹ Phương” đem củ sắn, mùi sắn luộc thơm phưng phức từ xa đã khiến chúng nó nuốt nước bọt ừng ực. Cũng vì thế, qua bao mùa khô, mùa mưa đói kém ở cái đất ba zan khát gạo, khát chữ này, lớp học của cô giáo Phương lúc nào cũng đông đủ, hiếm có ngày học sinh vắng mặt, có lúc thấy các em nhếch nhác, bẩn thỉu rách rưới quá, Phương dẫn các em ra suối tắm. Bên đống lửa bập bùng, hệt như trong phim ngọn lửa “cờ rông dung”, lũ trẻ lom nhom, suýt xoa sưởi ấm, đợi mẹ Phương vá áo, vá quần cho từng đứa.
Điều Phương ngỡ ngàng và day dứt nhất ở các thôn, làng của người Bhnoong, Ca dong trên đỉnh Pô kadong này là hủ tục tảo hôn. Nhiều đứa học trò mới học hết lớp 5, 6 đã bắt vợ, bắt chồng. Có những em gái chưa qua kịp tuổi thiếu nữ đã trở thành thiếu phụ. Đứa trẻ mới sinh cứ ngặt nghẽo ở trên lưng người mẹ trẻ gầy guộc, đen nhẻm cắm cúi làm nương, làm rẫy. Hình ảnh ấy thật xót xa, thật tội nghiệp, Phương bàn bạc với nhà trường, với đồng nghiệp. Rồi những ngày sau đó người ta thấy, ban ngày lên lớp dạy học, ban đêm cô giáo Phương lại xách đèn, đi đến từng nhà của các già làng vận động đồng bào ở đây bỏ hủ tục tảo hôn bằng tiếng Bhnoong, Cadong mà Phương đã học từ khi mới bước chân vào làng Peal, đến làng Peal, làng Kađủ...những bản làng lọt thỏm giữa những núi rừng trùng điệp. Các già làng rồi cùng gật đầu, ưng cái bụng, rồi các ông bố, bà mâm cũng gật đầu. Phương lại vận động các đoàn viên thanh niên ở các thôn, làng. Từ đó, nạn tảo hôn những năm gần đây đã giảm dần…
Vậy nhưng không phải lúc nào Phương cũng thành công. Ngay mới đây thôi, hai học trò của cô, Hồ Văn Xéo và Hồ Thị Sởn đã phải lòng với nhau sau khi học hết lớp 7 đòi bắt vợ, bắt chồng. Nghe tin Phương phải đến tận nhà khuyên giải, nhưng rồi lại đành chịu bó tay. Đám cưới cô dâu Hồ Thị Sởn và chú rể Hồ Văn Xeo vẫn diễn ra ngoài sự mong đợi. Cả làng Peal uống rượu thâu đêm, suốt tháng. Rồi các bà con làng khác cũng sang mừng. Có rượu, có thịt, có cồng, có chiêng, mà cô giáo Phương lại thấm đượm nỗi buồn.
Những nỗi buồn ấy giống như sợi tơ rừng da diết, khiến Phương thấy bản thân mình cần phải gắn bó với làng, bản, với đỉnh Pô Kadong này hơn. Nơi này, trẻ thơ, dân làng còn rất cần những giáo viên, những cô giáo Phương, hay cô giáo Hạnh, như những bông hoa tươi thắm cháy hết mình cho núi rừng vùng cao Phước Sơn, Quảng Nam này.
Vâng. Họ là những phụ nữ, những cô giáo miền xuôi vốn chân yếu tay mềm, nhưng số phận của chính họ và khát vọng đem văn minh, văn hoá đến các thôn, làng, cuộc đời và tất cả vì tương lai của các em thơ người dân tộc thiểu số vùng cao. Chính điều ấy đã khiến họ can đảm, kiên nhẫn, tận tụy dệt nên mạng lưới giáo dục vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Họ đã làm nên vẻ đẹp cho nền giáo dục, và cũng làm vơi bớt đi những tiêu cực ở một vài cá nhân nào đó trong nền giáo dục của chúng ta hiện nay…
