Một vụ án sai xảy ra đã 10 năm nay khiến không chỉ người dân bức xúc khiếu nại, mà nhiều ý kiến của các cơ quan chuyên môn của Quốc hội liên tục lên tiếng đề nghị TAND tối cao và VKSND tối cao xem xét lại, nhưng chỉ nhận được sự thờ ơ, im lặng khó hiểu.
Bà Lan ra tận TANDTC tại Hà Nội kêu oan và công văn của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai |
Vụ án không phức tạp
Năm 1989, bà Lê Thị Mỹ nhờ ông Nguyễn Thanh Quang, cán bộ địa chính xã Vĩnh Thanh, huyện Long Thành, Đồng Nai mua giúp 2 ha đất với giá 320.000 đồng và đưa cho ông Quang 100.000 đồng thuê cày đất và mua cây tràm giống.
Nhưng do bà Mỹ không thanh toán đủ chi phí nên tháng 1/1991 ông Quang sang nhượng đất cho vợ chồng ông Nguyễn Xuân Phong, Trần Thị Lan (ở ấp Vĩnh Tuy, xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch) nhưng không nói cho vợ chồng ông Phong biết nguồn gốc. Vợ chồng ông Phong đã cải tạo diện tích đất này để trồng cao su.
Biết chuyện ông Quang chuyển nhượng đất cho gia đình ông Phong, năm 1992 bà Mỹ yêu cầu VKSND huyện Long Thành giải quyết. Ngày 19/5/1992, tại VKSND huyện Long Thành, kiểm sát viên Phan Văn Lương đã mời bà Mỹ, ông Quang và vợ chồng ông Phong đến hòa giải. Tại đây, ông Quang đồng ý trả cho bà Mỹ số tiền mua đất, tiền cày cấy, cây giống, tổng cộng là 5,7 chỉ vàng. Bà Mỹ chấp nhận cho ông Quang trả dần trong vòng 1 năm. Biên bản hòa giải thành được lập có chữ ký các bên.
Như vậy, vụ việc đã được giải quyết, không có liên quan gì đến gia đình ông Phong. Do đó, ngày 19/4/1997, UBND huyện Nhơn Trạch (tách ra từ huyện Long Thành) đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Phong đối với 2 ha đất này.
Do hơn 4 năm mà ông Quang không có điều kiện thanh toán số vàng nên bà Mỹ có đơn tố cáo và Công an huyện khởi tố, tạm giam ông Quang 3 tháng. Nhưng xác định đây là tranh chấp dân sự nên ông Quang được trả tự do. Đòi tiền ông Quang không được, bà Mỹ quay sang đòi vợ chồng ông Phong thanh toán thay ông Quang và được Tòa án ủng hộ khi Bản án sơ thẩm buộc vợ chồng ông Phong trả cho bà Mỹ 900 triệu đồng.
Bản án Dân sự phúc thẩm số 152/DSPT ngày 28/11/2002 của TAND cũng: “Buộc anh Nguyễn Xuân Phong và chị Trần Thị Lan phải thanh toán giá trị 2 ha đất cho chị Lê Thị Mỹ là 900.000.000 đồng. Anh Nguyễn Xuân Phong và chị Trần Thị Lan được quyền sử dụng 2 ha đất… theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 19/4/1997”…
Quốc hội hỏi, hai cấp tối cao "phớt lờ"
Nhận được đơn kêu cứu của vợ chồng ông Phong và nhận thấy bản án có dấu hiệu oan sai nghiêm trọng nên nhiều lần Quốc hội, các cơ quan và đại biểu Quốc hội đã lên tiếng. Ngày 15/5/2004 Ủy ban Pháp luật Quốc hội khóa XI đã có Công văn số 551/UBPL11 do Phó Chủ nhiệm Trần Thế Vượng gửi Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC nêu: Thực hiện chỉ đạo của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu, Ủy ban Pháp luật gửi tới các đồng chí đơn của ông Phong và bà Lan; đề nghị các đồng chí xem xét, giải quyết theo thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật, trả lời ông Phong và bà Lan, đồng thời thông báo kết quả giải quyết đến Ủy ban Pháp luật của Quốc hội để báo cáo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu.
Tại Công văn 181 ngày 28/4/2006 do Phó trưởng đoàn Lê Hồng Phương ký gửi Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC nêu: Về nội dung khiếu nại của bà Lan, ngày 13/1/2006 Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai (ĐBQH) đã có Công văn số 30 gửi Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC kiến nghị giám đốc thẩm bản án số 152/DSPT ngày 28/11/2002 của TAND tỉnh Đồng Nai vì có sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định tư cách người tham gia tố tụng của người được Tòa coi là bị đơn, từ đó bản án đưa ra quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan gây thiệt hại cho bà Lan…
Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Nghị quyết số 228 ngày 15/11/1999 về đôn đốc theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai một lần nữa kính đề nghị Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC sớm xem xét vụ án để ra quyết định kháng nghị…
Bán án vẫn không được kháng nghị, vợ chồng ông Phong tiếp tục kêu oan. Do đó, Ủy ban Tư pháp Quốc hội lại có Công văn số 4765/UBTP12 ngày 18/3/2011 do Phó Chủ nhiệm Hoàng Văn Minh ký, gửi Chánh án TANDTC nêu rõ: “ TAND tỉnh Đồng Nai đã xét xử không đúng quy định của pháp luật và phát hiện ra tình tiết mới làm thay đổi căn bản nội dung bản án dân sự phúc thẩm nêu trên” nên đề nghị “Chánh án xem xét, giải quyết theo thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật, trả lời đương sự, đồng thời thông báo kết quả giải quyết đến Ủy ban Tư pháp của Quốc hội”.
Tiếp tục chờ đợi nhưng không có kết quả, nên cuối năm 2011, bà Lan đã lặn lội ra thủ đô trực tiếp nộp đơn kêu oan đến TANDTC, VKSNDTC, trụ sở tiếp nhận đơn thư của công dân của Đảng và Nhà nước, gặp trực tiếp ông Dương Trung Quốc, ĐBQH tỉnh Đồng Nai để nhờ giúp đỡ nhưng vụ án vẫn dẫm chân tại chỗ. Vì vậy, ngày 22/3/2012 Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai lại có Công văn số 22 gửi Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC đề nghị xem xét giải quyết theo thẩm quyền, trả lời đương sự và thông báo cho Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai biết kết quả giải quyết theo quy định của pháp luật.
Lại 5 tháng nữa trôi qua, khiếu nại của vợ chồng ông Phong, kiến nghị của Đoàn ĐBQH Đồng Nai vẫn chưa có hồi âm.
Chờ đến khi nào?
Nhiều luật sư cho rằng, vụ án khá đơn giản, các cơ quan tư pháp địa phương đã sai ở chỗ vụ việc đã được giải quyết ngày 19/5/1992 tại VKSND huyện Long Thành, vợ chồng ông Phong đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lẽ ra, khi ông Quang không trả nợ bà Mỹ có thể khởi kiện dân sự. Thay vì hành xử đúng pháp luật như vậy thì bà Mỹ lại yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. không được thì quay sang đòi nợ vợ chồng ông Phong, trớ trêu là Tòa án lại chấp nhận yêu cầu vô căn cứ đó dẫn đến oan sai.
Đáng nói hơn là thái độ thờ ơ, phớt lờ và của Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKDNDTC trước những dấu hiệu oam sai và ý kiến của người dân cũng như của các cơ quan chuyên môn Quốc hội?.
An Bình