Gương mặt văn nghệ sĩ Hải Phòng : Đoàn Thị Tảo - “người đàn bà độc ẩm”
Nhà thơ Đoàn Thị Tảo là em gái nhà biên kịch điện ảnh Đoàn Lê. Chị sinh ngày 20-2-1945, tại Đồ Sơn, Hải Phòng. Lý lịch trích ngang của Hội Nhà văn Hải Phòng cho thấy nghề chị làm không dính dáng đến nghệ thuật: Năm 1968, tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật.
Nhà thơ Đoàn Thị Tảo là em gái nhà biên kịch điện ảnh Đoàn Lê. Chị sinh ngày 20-2-1945, tại Đồ Sơn, Hải Phòng. Lý lịch trích ngang của Hội Nhà văn Hải Phòng cho thấy nghề chị làm không dính dáng đến nghệ thuật: Năm 1968, tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật. Từ 1968- 1971, là cán bộ kỹ thuật nhà máy C30 Bộ Công nghiệp nhẹ đặt tại Tam Đảo. Từ 1971-1981, cán bộ Sở Giao thông-Vận tải Hải Phòng. Năm 1981 về mất sức. Năm 1986 là xã viên HTX thủ công nghiệp Tháng Chín. Vậy mà chị đã có trên 30 năm làm thơ. Thơ chị cho thấy tuy không đa diện như chị Đoàn Lê, song khẳng định: khi đã chung nghiệp cầm bút với chị gái, Đoàn Thị Tảo cũng là một nhà thơ gặt hái được thành công
Nếu thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, xuất phát điểm là những nỗi niềm, thì thơ Đoàn Thị Tảo là chính cuộc đời cô đơn của chị. Năm 1985, chị nổi tiếng với bài thơ Chị tôi qua âm nhạc của nhạc sĩ Trọng Đài và giọng hát của ca sĩ Mỹ Linh trong bộ phim truyền hình Người Hà Nội:
Thế là chị ơi, rụng bông hoa gạo
Ô hay trời không nín gió, cho ngày
chị sinh.
Ngày chị sinh, trời cho làm thơ
Cho nét buồn vui, bốn mùa trăn trở
Cho làm câu hát, để người lý lơ.
Ngày chị sinh, trời cho làm thơ
Vấn vương, với sợi tơ trời
Tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan
Ở Hải Phòng, có một người đã phát hiện bài thơ Chị tôi chính danh tên là Cho một ngày sinh mà Đoàn Thị Tảo không phải viết chỉ cho Đoàn Lê. Đó là nhà thơ Dư Thị Hoàn. Trong bài viết Tản mạn về thơ Đoàn Thị Tảo trên Báo Hải Phòng cuối tuần cách đây chừng chục năm, nhà thơ Dư Thị Hoàn đã viết: “Khi nghe bài hát, tôi thật sự rùng mình liên tưởng một cuộc đầu thai bất giác vào làng văn chương của Đoàn Thị Tảo. Tôi cho rằng, khi đặt bút viết những dòng này, đã hiện dần lên “ngôi sao chiếu mệnh”. Đoàn Thị Tảo biết đấy, nhưng không dám đối mặt với nó, mà rụt rè đẩy nó sang phía bà chị gái Đoàn Lê”. Sự phát hiện này có thể xếp và danh mục “Chuyện làng văn nghệ”, nhưng có một thực tế là Đoàn Thị Tảo rất cô đơn. Năm 1999, khi Đoàn Thị Tảo ra mắt tập thơ Lá rụng, vẫn là nhà thơ Dư Thị Hoàn nhận xét: “Đọc thơ chị, có thể hình dung một người đàn bà sinh vào ngày lỗi lầm của tạo hóa: Tôi cô đơn/ Đi tìm người bạn đường qua một phần hai thế kỷ/ Hy vọng đem bán đi để ăn đường/ Để đi từ Đông sang Tây/ Đi từ Nam ra Bắc/ (….) Hạnh phúc mỗi ngày một lên giá./ Mà tôi lấp ló tuổi già”. Sự phát hiện này ngẫm ra cũng có lý, bởi trong cuộc sống đời thường, Đoàn Thị Tảo là vầng trăng khuyết giữa bầu trời cao rộng: “Tôi cô đơn nhất hành tinh/ Thế gian thừa đúng một mình tôi thôi” như chính chị từng thú nhận cách đây chừng hai thập niên, nghĩa là khi chị còn thanh xuân, ngọc thốt, hoa cười
Từ năm 2000, khi chị Đoàn Lê từ Hà Nội về xóm Chùa, Đồ Sơn, xây ngôi nhà vườn ở cùng Đoàn Thị Tảo, hai chị em như bóng với hình. Nhưng nỗi cô đơn vẫn là cảm hứng chủ đạo, xuyên suốt những câu thơ trong các tập thơ của chị tiếp theo Lá rụng
Và chính nhờ sự cô đơn của nhà thơ, chúng ta có được một Đoàn Thị Tảo khác- một nhà thơ vừa phảng phất cái tài “trời cho làm thơ”, cái tình long đong “tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan” của chị Đoàn Lê, vừa “tỉnh đến nơi, say đến chốn”. Chị là người đàn bà mà độc ẩm không chỉ là thú vui. Bài thơ “ Độc ẩm” và “Khúc ả đào lúc sang canh” trong các tập thơ Thu biển, Lỡ thể hiện rất rõ tâm trạng này
Ở bài “Độc ẩm”, người đàn bà uống trà một mình. Đầu tiên là sự chủ động ngóng đợi, chờ mong người tri kỷ:
Trà ngon châm nước ngóng bạn hiền
Khung cảnh thưởng trà cũng thật lãng mạn với:
Trăng rằm buông áo phủ đầu hiên
Biển xa thao thức cồn cào sóng
Chén chạm bờ môi hương ngả nghiêng.
Câu thơ có sự đối nhau giữa cái tĩnh và cái động. Trăng rằm áo phủ thì yên tĩnh lắm. Nhưng ngoài kia, biển đâu có yên! Cái âm thanh cồn cào ấy như lòng chị cứ chờ, cứ đợi. Song người ấy hình như không đến. Cho nên câu thơ buông như một dấu chấm than khắc khoải bẽ bàng:
Ai có như ta uống đợi chờ
Chén mong, chén nhớ, buồn ngắc ngơ
Có thể thấy ở đây, cái chén được nhắc lại đến ba lần. Nhưng ba lần là ba cung bậc khắc khoải khác nhau. Đầu tiên là chén chạm bờ môi đủ thấm hương vị của trà. Sau đó là chén mong chén nhớ, chén nào cũng đọng nỗi buồn đến ngắc ngơ. So với hai chữ ngẩn ngơ mà ta thường nghe khi tả nỗi buồn, thì chữ ngắc ngơ được chị sử dụng thật đắc địa. Nó khoét sâu hơn nỗi buồn không biết nói cùng ai khi người đàn bà một mình uống trà mà nhân chứng chỉ có thiên nhiên. Câu thơ cuối
Này trăng, này biển thơ dăm chữ
Ướp đậm hương trà, ta khách ta
như một lời trò chuyện, mang tất cả ý nghĩa chủ đề của bài thơ. Nỗi cô đơn đã được chuyển hóa trong tâm thế của một người biết thưởng trà!
Nếu uống trà đã buồn, người đàn bà càng buồn khi một mình với rượu. Bài thơ “Khúc ả đào lúc sang canh” được chị mở đầu bằng thời điểm uống rượu. Đó là lúc giao thừa - cái thời khắc chuyển từ năm cũ sang năm mới khiến người ta bao suy ngẫm. Người đủ đầy thì ngẫm trong niềm vui. Người khuyết vắng bạn đời thì:
Rượu giao thừa tay nâng tay rót
Câu thơ ngắn mà tải trọn hình ảnh và tâm trạng. Hai động tác “tay nâng/ tay rót” khiến ta hình dung người đang uống rượu một mình, uống trong sự tưởng tượng mình đang uống cùng người tri kỷ. Và khi men rượu thăng hoa, người đàn bà đã thấy
Câu thơ lãng đãng lạc vần
Hồn xiêu phách tán nẻo gần nẻo xa
Nhưng cái qua thì đã qua rồi. Còn cái đến thì chẳng bao giờ thấy đến. Câu thơ càng đọng nỗi niềm mà càng ai oán, giận rồi lại trách mình:
Nghĩ mà giận trời già non nhẽ
Cái tình tang đem bẻ làm đôi
Nửa treo tít tận cuối trời
Nửa vung mặt đất làm mồi nuôi chim
Mạch thơ tiếp tục chìm trong mộng tưởng suy ngẫm:
Hình còn đó người tìm đâu thấy
Khói hương bay cao tới cửu trùng
Tiếng ca da diết não nùng
Hỏi ai ai thấu nỗi lòng cùng ai
Và rồi khi đối diện với đào mai khoe sắc, người đàn bà cũng nhận ta mỗi lúc xuân về lại làm the thắt lòng nhau. Khúc ả đào kết thúc bằng câu thơ động như là sự thức tỉnh sau những mộng mị tâm linh:
Rượu đây chén cạn mời nhau
Tiền vàng hóa giải nỗi sầu trăm năm.
Người đàn bà độc ẩm trong những ngắc ngơ, the thắt gợi sự buồn sầu. Chỉ khác với nhà thơ Đoàn Thị Tảo, sự buồn là nỗi cô đơn, sự sầu là của trăm năm dồn lại, uống để quên mà thực ra là rất nhớ, uống để bình yên mà thực ra là sự quấy đạp dũ dội của quá khứ, của nội tâm. Vì thế, rượu và thơ trong chị hiện ra như là một nơi nương tựa của tinh thần, sự giải thoát nỗi cô đơn, hơn thế còn là một quan niệm văn hóa độc ẩm. Trong cuộc đời nhà thơ, đôi khi chỉ cần ít nhưng hay đã là đủ, chỉ cần một tác phẩm thơ để lại cho đời, là đã thành công. Từ Chị tôi đến Độc ẩm, Khúc ả đào lúc sang canh, Đoàn Thị Tảo là nhà thơ tự tỏa sáng trong văn chương mà làm thơ là cái tài thiên phú, đóng góp vào sự đa dạng của thơ ca Hải Phòng.
Ngọc Anh