Gương đảng viên
QTV - 45 tuổi đảng, 45 năm PGS. Nhà giáo Nhân dân Lê Mậu Hãn gắn bó với Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, 45 năm gửi gắm nhiệt huyết cho bao thế hệ học trò… Và Thầy còn là một trong những chuyên gia đầu tiên, nổi tiếng về nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và lịch sử Việt Nam hiện đại.
QTV - 45 tuổi đảng, 45 năm PGS. Nhà giáo Nhân dân Lê Mậu Hãn gắn bó với Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, 45 năm gửi gắm nhiệt huyết cho bao thế hệ học trò… Và Thầy còn là một trong những chuyên gia đầu tiên, nổi tiếng về nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và lịch sử Việt Nam hiện đại.
![]() |
|
PGS. NGND Lê Mậu Hãn (trái) trao đổi với GS. Lương Chí Minh (Đại học Bắc Kinh) về ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ảnh: TL
|
Thầy có thể kể về những năm tháng tham gia cách mạng, trở thành đảng viên?
Cũng như bao người dân của đất Triệu Long, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, tôi sinh ra trong gia đình một lòng theo Đảng, theo cách mạng. Cụ thân sinh từng là Chủ tịch UBND lâm thời làng Bích La Thượng, mẹ là nông dân, gia đình tôi là cơ sở cách mạng nuôi giấu Việt Minh, cán bộ nằm vùng. Tôi có một tuổi thơ nhọc nhằn, được chứng kiến tận mắt sự tàn ác của giặc và những nỗi đau tột cùng của bà con nông dân. Năm 1947, khi tôi tròn 12 tuổi, chỉ trong một trận càn, bố và hai chú ruột của tôi đã bị bắt và không bao giờ trở về nữa. Đau đớn vô cùng nhưng gia đình tôi cũng phải gượng dậy. Những năm đó tôi phải bỏ học, phần vì làng lập tề, giặc chiếm, phần vì gia đình quá khó khăn. Cũng từ thời điểm đó, với quyết tâm trả thù cho cha, cho chú, cho những người thân xung quanh, tôi tham gia phong trào kháng chiến cơ sở, vào dân quân, du kích song vẫn luôn ấp ủ mơ ước được đi học trở lại. Năm 1950-1951, nghe nói có trường kháng chiến, tôi lặn lội vào tận Phong Điền, Thừa Thiên học trường cấp II Nguyễn Chí Diểu. Một năm sau lại trở ra Triệu Phong học tiếp. Những ngày ấy phải học trong chùa, không có bàn ghế, phải kê lên đầu gối để viết, lại luôn bị giặc càn mà học vẫn hết sức say sưa. Vừa học, tôi vừa tham gia Ban Chấp hành hiệu Đoàn học sinh. Năm 1953, giặc càn quét lớn, lại “cơm đùm, gạo bới” vượt Trường Sơn, ra Bắc, tìm học trường cấp III. Đầu tiên là cấp III Nghi Lộc, rồi cấp III Huỳnh Thúc Kháng (Nghệ An). ở nhờ nhà dân cộng với chút ít học bổng của học sinh Trị Thiên và chịu khó đi rừng, lấy củi, tự nấu lấy ăn, nên tôi cũng học hết mấy năm học phổ thông trung học.
Năm 1956, tôi ra Hà Nội dự thi đại học và lại tiếp tục vừa học vừa làm để tự trang trải cho cuộc sống và thực hiện mơ ước của mình. Nỗ lực của tôi đã được đền đáp bằng một niềm vui không thể tả xiết, đó là năm Đảng ta tròn 30 tuổi thì tôi cũng vinh dự được đứng vào hàng ngũ những người cộng sản.
Vào học ngành lịch sử là ước mơ của Thầy?
Có lẽ chẳng ai ngờ, nguyện vọng đầu tiên khi tôi đăng ký dự thi vào đại học là Đại học Nông nghiệp. Lúc đó tôi chỉ có ý nghĩ đơn giản, mình là con nhà nông, tuổi thơ mình gắn với đồng quê, mình phải học nông nghiệp để về quê làm việc, phục vụ bà con. Nguyện vọng thứ hai là thi vào Đại học Bách khoa, đến nguyện vọng thứ ba mới là thi sử. Và tôi đã đến với Khoa lịch sử của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, khóa đầu tiên. Trong quá trình học tập, luôn xác định là sinh viên từ vùng kháng chiến ra nên tôi hăng hái tham gia các hoạt động Đoàn. Khi tốt nghiệp, là một trong ít sinh viên được giữ lại trường, tôi cảm thấy như một “duyên phận” của bản thân. Những năm tháng học tập trong trường, được các thầy giáo giỏi như GS. Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông… giảng dạy, chỉ bảo, được sống trong không khí, môi trường khoa học lịch sử, tôi đã ham rồi say và tận lòng với nó tự bao giờ chẳng biết nữa.
45 năm giảng dạy, 45 năm tham gia nghiên cứu lịch sử, chắc hẳn Thầy đạt nhiều kết quả trong công việc?
Đến nay, tôi đã ở tuổi thất thập cổ lai hy và được giới sử học coi là một trong những chuyên gia về lịch sử hiện đại và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, có đóng góp trong nghiên cứu lịch sử cách mạng. Để có được chút đóng góp đó, tôi đã toàn tâm, toàn ý, dành tất cả sức lực của cuộc đời cho công việc.
Còn nhớ, khi ra trường, tôi được giao nhiệm vụ trợ lý các giáo sư giảng dạy về lịch sử hiện đại. Đây là lĩnh vực rất khó vì lúc đó không có sách để đọc, không có tư liệu để tìm hiểu. GS. Trần Văn Giàu giảng về lĩnh vực này nhưng cũng chỉ giảng đến giai đoạn 1945. Sau đó, chúng ta tiến hành tổng kết lịch sử cách mạng giai đoạn 1945-1954 song chỉ có trên báo cáo, đặc biệt có những đoạn báo cáo chúng tôi chỉ được nghe chứ không được ghi vì chưa có kết luận. Trong trường sách rất hiếm, có cuốn cả thư viện chỉ có năm quyển, chỉ được đọc tại chỗ. Để có sách nghiên cứu, ngày hôm trước tôi lên thư viện ghi mã số, tên sách mình cần mượn ra giấy, sáng hôm sau đến thật sớm, chờ thư viện mở cửa. Khi cánh cửa thư viện vừa bật mở, rất nhanh tay, tôi “thò” ngay giấy mượn sách vào.
Không tự thỏa mãn với những kết quả nghiên cứu trước, luôn tìm tòi, đặt lại các vấn đề đã nghiên cứu, tìm hiểu nên tôi cùng tất cả các giáo viên không ngại khó, lăn vào công việc. Từ năm 1975, tôi tham gia công tác quản lý, làm Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Đảng 15 năm (gần bằng 1/3 số tuổi của Khoa). Trong những năm làm công tác quản lý, tôi vẫn luôn tích lũy tư liệu để chuẩn bị cho công việc sau này. Hiện nay, tôi có nhiều cuốn sách chưa chắc các thư viện đã còn, ví như cuốn “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh xuất bản lần thứ nhất…
Khi thôi làm Chủ nhiệm Khoa, với vốn kiến thức từ trước và tích cực nghiên cứu, học hỏi thêm, tôi đã hoàn thành mấy công trình lịch sử mà giới chuyên môn ghi nhận có giá trị. Đến nay, tôi đã tham gia biên soạn và chủ biên hơn 20 đầu sách. Trong đó có một số cuốn được sử dụng rộng rãi như Việt Nam đất nước anh hùng (1975), 35 năm chiến đấu xây dựng (1980), Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1982), 40 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985)… Năm 1992, khi hai tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam xuất bản đã gây được sự chú ý, được giới sử và bạn đọc ủng hộ vì có những trang viết mang tính phát hiện, có nhận định sáng rõ hơn về những lý luận độc đáo của Nguyễn ái Quốc. Thời gian tiếp theo, nghiên cứu, viết Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960 (1994), Đại cương lịch sử Việt Nam từ 1945 trở đi (1997), Các đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (2000)… Năm 2001, cuốn chuyên khảo Sức mạnh dân tộc của Cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh được đặc biệt chú ý. Để hoàn thành nó, tôi phải nghiên cứu, tích lũy từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Ngay sau khi cuốn chuyên khảo ra đời, một trường đại học Mỹ đã mời tôi sang trao đổi khoa học với chủ đề Tư tưởng độc lập tự do, sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam… Năm 2005, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và viết Lịch sử Chính phủ Việt Nam, giai đoạn 1945-1955, v.v…
Tôi luôn tâm niệm, làm sách là làm khoa học, phục vụ cuộc sống, luôn phải tôn trọng lịch sử, lịch sử là khách quan. Càng khách quan bao nhiêu càng chính xác bấy nhiêu và càng có lợi cho cách mạng. Trong khi làm việc, tôi luôn giữ tính cương trực, bản lĩnh của người làm khoa học và người đảng viên.
Những đóng góp của Thầy đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận và phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú, Nhà giáo Nhân dân; trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương chống Mỹ, cứu nước và nhiều bằng khen của Thủ tướng, của Bộ… Thầy có thể chia sẻ những kỷ niệm đó với bạn đọc?
Năm 1990, tôi được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú… Năm 2002, được phong danh hiệu Nhà giáo Nhân dân… Mỗi lần như vậy là mỗi lần có cảm xúc khác nhau. Tôi nghĩ đó là những giá trị tinh thần, là nguồn động viên những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy phải cố gắng hơn nữa… Đây là niềm vui, hạnh phúc, là vinh dự trong cuộc đời dạy học, là tình cảm mà đồng nghiệp, học trò dành cho tôi.
Là một chuyên gia nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và hiện nay là Tổ trưởng tổ Hồ Chí Minh học của bộ môn khoa học Chính trị, Thầy muốn nói gì với những người nghiên cứu sử, dạy sử, dạy tư tưởng của Bác?
Nghiên cứu lịch sử là hành trình đi tìm chân lý. Đó là cả quá trình đấu tranh tư tưởng có phương pháp khoa học và phải có rung cảm để nhìn đúng sự thật. Đó chính là phương châm làm việc của tôi khi nghiên cứu lịch sử. Tôi nhớ, vào năm 1987, thời kỳ đổi mới, có những vấn đề gay gắt, gay gắt đầu tiên là nói về hội nghị thành lập Đảng, trong đó nói về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Là một thầy giáo dạy sử, chuyên nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi đã nghiên cứu kỹ, viết bài “Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập dân tộc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng” (Hành trình đến chân lý lịch sử, NXB CTQG, H.2005), góp phần làm rõ, khẳng định sự thật lịch sử có tác động tích cực tới nhận thức đúng của sinh viên, cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Khi giảng lịch sử, người thầy phải biết chọn lọc chi tiết, bằng sự hiểu biết của mình để minh họa, tái hiện dòng chảy lịch sử. Có vậy người thầy mới có thể truyền tải một cách sâu sắc tới thế hệ học trò của mình tính chân thật, khách quan của lịch sử và tình yêu với môn học này. Khi giảng tư tưởng Hồ Chí Minh, người thầy lấy việc làm, hành động, nhân cách của Người để chứng minh. Cụ Hồ là nhà lý luận và thực tiễn, nói đi đôi với làm. Chúng ta lấy việc làm của Người để chứng minh cho tư tưởng của Người. Việc làm đó chính là tư duy khoa học biện chứng, rất chính trị, là sự minh chứng có sức thuyết phục nhất.
Nghiên cứu Hồ Chí Minh, phải tìm hiểu những tài liệu trong và ngoài nước liên quan đến Người. Tìm hiểu kỹ mới có kiến thức, có hiểu biết để giảng đúng, sâu sắc, tìm ra nét sáng tạo trong tư tưởng của Người. Thời xưa, Khổng Tử nói trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, Hồ Chí Minh nói trung với nước, hiếu với dân.
Còn đối với người học lịch sử?
Tôi nghĩ điều quyết định đến chất lượng học tập của sinh viên là phải có người thầy nghiêm túc, đồng thời sinh viên phải nỗ lực vươn lên tự học, phải chịu khó đọc, tìm hiểu. Sinh viên đến lớp không thụ động, chỉ nghe và ghi chép. Sinh viên nên đọc sách trước khi đến lớp nghe giảng những vấn đề mới, soi vào sách và ngẫm nghĩ thì mới ngấm.
Trong quá trình học, sinh viên phải hỏi. Hỏi là một cách rèn luyện tư duy. Sinh viên học phải biết “cãi” thầy. Vấn đề là “cãi” có văn hóa, lễ độ. Cãi là trình bày lại vấn đề theo suy nghĩ của mình. Có thể sai. Sai thì thầy uốn nắn, đúng thì thầy phải học. Hiện nay, có rất nhiều sinh viên thông minh, nhưng chưa có kinh nghiệm nghiên cứu, học tập. Thầy chú ý nghe trò hỏi, nắm vấn đề trò muốn biết, từ đó giảng giải, hướng dẫn trò nắm và trình bày vấn đề. Từ đó cả thầy và trò đi đến thống nhất và hiểu nhau hơn.
Vậy để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy sử, đặc biệt là giảng tư tưởng Hồ Chí Minh, theo Thầy nên như thế nào?
Chúng ta có rất nhiều giáo sư, những nhà sử học nổi tiếng và các thầy rất chăm lo bồi dưỡng thế hệ kế tiếp nên cũng không lo lắng lắm. Nhưng đội ngũ giáo viên dạy tư tưởng Hồ Chí Minh thì còn rất mỏng. Hiện nay, việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đang được triển khai rộng rãi trong các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân trong cả nước. Từ năm học 2003 - 2004, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt đầu được giảng dạy trong tất cả các trường đại học, cao đẳng. Song mới có hơn một nghìn cán bộ giảng dạy được bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh và một số môn học bổ trợ qua một khóa học khoảng sáu tháng.
Để có đội ngũ giáo viên có chất lượng các trường phải có chương trình, kế hoạch đào tạo cơ bản. Quyết định chất lượng giảng dạy tốt là đội ngũ giáo viên giỏi. Người thầy không chỉ có phương pháp sư phạm mà còn phải nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Giảng viên tư tưởng Hồ Chí Minh phải được nghiên cứu kỹ các chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh về Cách mạng Việt Nam; về văn hóa, về đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh; những giá trị văn hóa phương Đông và phương Tây; phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin v.v... Điều cốt lõi là người thầy phải có tâm, làm hết sức mình cho các thế hệ học trò. Với tôi, hạnh phúc nhất là cho học trò được nhiều tri thức. Và muốn làm được nhiều nhất thì người thầy luôn phải học, học cho mình và cũng là học cho xã hội. Người thầy luôn luôn hướng cái tâm vào nghề của mình.
Người Thầy dạy sử, dạy tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò như thế nào trong việc hun đúc tình yêu đất nước, tình yêu với Đảng, với Bác và nguyện vọng vào Đảng của lớp trẻ?
Những người thầy dạy lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, dạy tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những người định hướng, giúp các em hiểu, yêu lịch sử đất nước mình. Các thầy là một trong những kênh truyền đến thế hệ trẻ lý tưởng, hoài bão sẵn sàng sống và cống hiến cho Đảng. Nếu mỗi người thầy là những đảng viên gương mẫu, yêu Đảng, yêu nghề thì sẽ ảnh hưởng rất tích cực đến các bạn trẻ. Tôi đã từng tham gia những lớp bồi dưỡng tìm hiểu về Đảng. Khi đứng trên bục giảng, bao giờ tôi cũng nói để các em hiểu Đảng là thế nào, khi mình vào Đảng thì phải làm gì... Và các bạn trẻ cũng xác định được vào Đảng là phải chấp nhận dấn thân, phải rèn luyện, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nếu vào Đảng vì mục đích cá nhân thì đừng vào.
Theo Thầy làm thế nào để có nhiều bạn trẻ có nguyện vọng vào Đảng?
Cần có cách tuyên truyền, động viên các bạn trẻ hiểu hơn về Đảng, tin, yêu Đảng và tự nguyện gia nhập Đảng. Tôi có một người bạn, có con được đi học lớp tìm hiểu về Đảng nhưng không hiểu các thầy đã tuyên truyền thế nào mà về em nói là vào Đảng khô khan lắm và không viết đơn xin vào Đảng. Chúng ta phải xây dựng phong trào hành động cách mạng để lôi cuốn đoàn viên, quần chúng vào Đảng. Ngày xưa, hàng nghìn quần chúng sẵn sàng xả thân, tha thiết vào Đảng vì các phong trào cách mạng tự thân nó đã lôi cuốn bạn trẻ, các tổ chức đảng, đảng viên tạo được niềm tin với quần chúng.
Tôi thấy ngày nay các bạn trẻ khi vào Đảng hay bị vướng mắc về thủ tục hành chính. Có một số người vào Đảng vì động cơ không trong sáng. Vậy tổ chức đảng, những người có trách nhiệm cần có cái nhìn đúng đắn, để lựa chọn, kết nạp vào Đảng những người có tài, đức, sẵn sàng cống hiến cho Đảng. Đối với các bạn trẻ - sinh viên, vào Đảng là môi trường tốt để rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành.
Xin cảm ơn Thầy!
Cũng như bao người dân của đất Triệu Long, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, tôi sinh ra trong gia đình một lòng theo Đảng, theo cách mạng. Cụ thân sinh từng là Chủ tịch UBND lâm thời làng Bích La Thượng, mẹ là nông dân, gia đình tôi là cơ sở cách mạng nuôi giấu Việt Minh, cán bộ nằm vùng. Tôi có một tuổi thơ nhọc nhằn, được chứng kiến tận mắt sự tàn ác của giặc và những nỗi đau tột cùng của bà con nông dân. Năm 1947, khi tôi tròn 12 tuổi, chỉ trong một trận càn, bố và hai chú ruột của tôi đã bị bắt và không bao giờ trở về nữa. Đau đớn vô cùng nhưng gia đình tôi cũng phải gượng dậy. Những năm đó tôi phải bỏ học, phần vì làng lập tề, giặc chiếm, phần vì gia đình quá khó khăn. Cũng từ thời điểm đó, với quyết tâm trả thù cho cha, cho chú, cho những người thân xung quanh, tôi tham gia phong trào kháng chiến cơ sở, vào dân quân, du kích song vẫn luôn ấp ủ mơ ước được đi học trở lại. Năm 1950-1951, nghe nói có trường kháng chiến, tôi lặn lội vào tận Phong Điền, Thừa Thiên học trường cấp II Nguyễn Chí Diểu. Một năm sau lại trở ra Triệu Phong học tiếp. Những ngày ấy phải học trong chùa, không có bàn ghế, phải kê lên đầu gối để viết, lại luôn bị giặc càn mà học vẫn hết sức say sưa. Vừa học, tôi vừa tham gia Ban Chấp hành hiệu Đoàn học sinh. Năm 1953, giặc càn quét lớn, lại “cơm đùm, gạo bới” vượt Trường Sơn, ra Bắc, tìm học trường cấp III. Đầu tiên là cấp III Nghi Lộc, rồi cấp III Huỳnh Thúc Kháng (Nghệ An). ở nhờ nhà dân cộng với chút ít học bổng của học sinh Trị Thiên và chịu khó đi rừng, lấy củi, tự nấu lấy ăn, nên tôi cũng học hết mấy năm học phổ thông trung học.
Năm 1956, tôi ra Hà Nội dự thi đại học và lại tiếp tục vừa học vừa làm để tự trang trải cho cuộc sống và thực hiện mơ ước của mình. Nỗ lực của tôi đã được đền đáp bằng một niềm vui không thể tả xiết, đó là năm Đảng ta tròn 30 tuổi thì tôi cũng vinh dự được đứng vào hàng ngũ những người cộng sản.
Vào học ngành lịch sử là ước mơ của Thầy?
Có lẽ chẳng ai ngờ, nguyện vọng đầu tiên khi tôi đăng ký dự thi vào đại học là Đại học Nông nghiệp. Lúc đó tôi chỉ có ý nghĩ đơn giản, mình là con nhà nông, tuổi thơ mình gắn với đồng quê, mình phải học nông nghiệp để về quê làm việc, phục vụ bà con. Nguyện vọng thứ hai là thi vào Đại học Bách khoa, đến nguyện vọng thứ ba mới là thi sử. Và tôi đã đến với Khoa lịch sử của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, khóa đầu tiên. Trong quá trình học tập, luôn xác định là sinh viên từ vùng kháng chiến ra nên tôi hăng hái tham gia các hoạt động Đoàn. Khi tốt nghiệp, là một trong ít sinh viên được giữ lại trường, tôi cảm thấy như một “duyên phận” của bản thân. Những năm tháng học tập trong trường, được các thầy giáo giỏi như GS. Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông… giảng dạy, chỉ bảo, được sống trong không khí, môi trường khoa học lịch sử, tôi đã ham rồi say và tận lòng với nó tự bao giờ chẳng biết nữa.
45 năm giảng dạy, 45 năm tham gia nghiên cứu lịch sử, chắc hẳn Thầy đạt nhiều kết quả trong công việc?
Đến nay, tôi đã ở tuổi thất thập cổ lai hy và được giới sử học coi là một trong những chuyên gia về lịch sử hiện đại và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, có đóng góp trong nghiên cứu lịch sử cách mạng. Để có được chút đóng góp đó, tôi đã toàn tâm, toàn ý, dành tất cả sức lực của cuộc đời cho công việc.
Còn nhớ, khi ra trường, tôi được giao nhiệm vụ trợ lý các giáo sư giảng dạy về lịch sử hiện đại. Đây là lĩnh vực rất khó vì lúc đó không có sách để đọc, không có tư liệu để tìm hiểu. GS. Trần Văn Giàu giảng về lĩnh vực này nhưng cũng chỉ giảng đến giai đoạn 1945. Sau đó, chúng ta tiến hành tổng kết lịch sử cách mạng giai đoạn 1945-1954 song chỉ có trên báo cáo, đặc biệt có những đoạn báo cáo chúng tôi chỉ được nghe chứ không được ghi vì chưa có kết luận. Trong trường sách rất hiếm, có cuốn cả thư viện chỉ có năm quyển, chỉ được đọc tại chỗ. Để có sách nghiên cứu, ngày hôm trước tôi lên thư viện ghi mã số, tên sách mình cần mượn ra giấy, sáng hôm sau đến thật sớm, chờ thư viện mở cửa. Khi cánh cửa thư viện vừa bật mở, rất nhanh tay, tôi “thò” ngay giấy mượn sách vào.
Không tự thỏa mãn với những kết quả nghiên cứu trước, luôn tìm tòi, đặt lại các vấn đề đã nghiên cứu, tìm hiểu nên tôi cùng tất cả các giáo viên không ngại khó, lăn vào công việc. Từ năm 1975, tôi tham gia công tác quản lý, làm Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Đảng 15 năm (gần bằng 1/3 số tuổi của Khoa). Trong những năm làm công tác quản lý, tôi vẫn luôn tích lũy tư liệu để chuẩn bị cho công việc sau này. Hiện nay, tôi có nhiều cuốn sách chưa chắc các thư viện đã còn, ví như cuốn “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh xuất bản lần thứ nhất…
Khi thôi làm Chủ nhiệm Khoa, với vốn kiến thức từ trước và tích cực nghiên cứu, học hỏi thêm, tôi đã hoàn thành mấy công trình lịch sử mà giới chuyên môn ghi nhận có giá trị. Đến nay, tôi đã tham gia biên soạn và chủ biên hơn 20 đầu sách. Trong đó có một số cuốn được sử dụng rộng rãi như Việt Nam đất nước anh hùng (1975), 35 năm chiến đấu xây dựng (1980), Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1982), 40 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985)… Năm 1992, khi hai tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam xuất bản đã gây được sự chú ý, được giới sử và bạn đọc ủng hộ vì có những trang viết mang tính phát hiện, có nhận định sáng rõ hơn về những lý luận độc đáo của Nguyễn ái Quốc. Thời gian tiếp theo, nghiên cứu, viết Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960 (1994), Đại cương lịch sử Việt Nam từ 1945 trở đi (1997), Các đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (2000)… Năm 2001, cuốn chuyên khảo Sức mạnh dân tộc của Cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh được đặc biệt chú ý. Để hoàn thành nó, tôi phải nghiên cứu, tích lũy từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Ngay sau khi cuốn chuyên khảo ra đời, một trường đại học Mỹ đã mời tôi sang trao đổi khoa học với chủ đề Tư tưởng độc lập tự do, sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam… Năm 2005, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và viết Lịch sử Chính phủ Việt Nam, giai đoạn 1945-1955, v.v…
Tôi luôn tâm niệm, làm sách là làm khoa học, phục vụ cuộc sống, luôn phải tôn trọng lịch sử, lịch sử là khách quan. Càng khách quan bao nhiêu càng chính xác bấy nhiêu và càng có lợi cho cách mạng. Trong khi làm việc, tôi luôn giữ tính cương trực, bản lĩnh của người làm khoa học và người đảng viên.
Những đóng góp của Thầy đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận và phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú, Nhà giáo Nhân dân; trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương chống Mỹ, cứu nước và nhiều bằng khen của Thủ tướng, của Bộ… Thầy có thể chia sẻ những kỷ niệm đó với bạn đọc?
Năm 1990, tôi được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú… Năm 2002, được phong danh hiệu Nhà giáo Nhân dân… Mỗi lần như vậy là mỗi lần có cảm xúc khác nhau. Tôi nghĩ đó là những giá trị tinh thần, là nguồn động viên những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy phải cố gắng hơn nữa… Đây là niềm vui, hạnh phúc, là vinh dự trong cuộc đời dạy học, là tình cảm mà đồng nghiệp, học trò dành cho tôi.
Là một chuyên gia nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và hiện nay là Tổ trưởng tổ Hồ Chí Minh học của bộ môn khoa học Chính trị, Thầy muốn nói gì với những người nghiên cứu sử, dạy sử, dạy tư tưởng của Bác?
Nghiên cứu lịch sử là hành trình đi tìm chân lý. Đó là cả quá trình đấu tranh tư tưởng có phương pháp khoa học và phải có rung cảm để nhìn đúng sự thật. Đó chính là phương châm làm việc của tôi khi nghiên cứu lịch sử. Tôi nhớ, vào năm 1987, thời kỳ đổi mới, có những vấn đề gay gắt, gay gắt đầu tiên là nói về hội nghị thành lập Đảng, trong đó nói về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Là một thầy giáo dạy sử, chuyên nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi đã nghiên cứu kỹ, viết bài “Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập dân tộc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng” (Hành trình đến chân lý lịch sử, NXB CTQG, H.2005), góp phần làm rõ, khẳng định sự thật lịch sử có tác động tích cực tới nhận thức đúng của sinh viên, cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Khi giảng lịch sử, người thầy phải biết chọn lọc chi tiết, bằng sự hiểu biết của mình để minh họa, tái hiện dòng chảy lịch sử. Có vậy người thầy mới có thể truyền tải một cách sâu sắc tới thế hệ học trò của mình tính chân thật, khách quan của lịch sử và tình yêu với môn học này. Khi giảng tư tưởng Hồ Chí Minh, người thầy lấy việc làm, hành động, nhân cách của Người để chứng minh. Cụ Hồ là nhà lý luận và thực tiễn, nói đi đôi với làm. Chúng ta lấy việc làm của Người để chứng minh cho tư tưởng của Người. Việc làm đó chính là tư duy khoa học biện chứng, rất chính trị, là sự minh chứng có sức thuyết phục nhất.
Nghiên cứu Hồ Chí Minh, phải tìm hiểu những tài liệu trong và ngoài nước liên quan đến Người. Tìm hiểu kỹ mới có kiến thức, có hiểu biết để giảng đúng, sâu sắc, tìm ra nét sáng tạo trong tư tưởng của Người. Thời xưa, Khổng Tử nói trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, Hồ Chí Minh nói trung với nước, hiếu với dân.
Còn đối với người học lịch sử?
Tôi nghĩ điều quyết định đến chất lượng học tập của sinh viên là phải có người thầy nghiêm túc, đồng thời sinh viên phải nỗ lực vươn lên tự học, phải chịu khó đọc, tìm hiểu. Sinh viên đến lớp không thụ động, chỉ nghe và ghi chép. Sinh viên nên đọc sách trước khi đến lớp nghe giảng những vấn đề mới, soi vào sách và ngẫm nghĩ thì mới ngấm.
Trong quá trình học, sinh viên phải hỏi. Hỏi là một cách rèn luyện tư duy. Sinh viên học phải biết “cãi” thầy. Vấn đề là “cãi” có văn hóa, lễ độ. Cãi là trình bày lại vấn đề theo suy nghĩ của mình. Có thể sai. Sai thì thầy uốn nắn, đúng thì thầy phải học. Hiện nay, có rất nhiều sinh viên thông minh, nhưng chưa có kinh nghiệm nghiên cứu, học tập. Thầy chú ý nghe trò hỏi, nắm vấn đề trò muốn biết, từ đó giảng giải, hướng dẫn trò nắm và trình bày vấn đề. Từ đó cả thầy và trò đi đến thống nhất và hiểu nhau hơn.
Vậy để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy sử, đặc biệt là giảng tư tưởng Hồ Chí Minh, theo Thầy nên như thế nào?
Chúng ta có rất nhiều giáo sư, những nhà sử học nổi tiếng và các thầy rất chăm lo bồi dưỡng thế hệ kế tiếp nên cũng không lo lắng lắm. Nhưng đội ngũ giáo viên dạy tư tưởng Hồ Chí Minh thì còn rất mỏng. Hiện nay, việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đang được triển khai rộng rãi trong các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân trong cả nước. Từ năm học 2003 - 2004, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt đầu được giảng dạy trong tất cả các trường đại học, cao đẳng. Song mới có hơn một nghìn cán bộ giảng dạy được bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh và một số môn học bổ trợ qua một khóa học khoảng sáu tháng.
Để có đội ngũ giáo viên có chất lượng các trường phải có chương trình, kế hoạch đào tạo cơ bản. Quyết định chất lượng giảng dạy tốt là đội ngũ giáo viên giỏi. Người thầy không chỉ có phương pháp sư phạm mà còn phải nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Giảng viên tư tưởng Hồ Chí Minh phải được nghiên cứu kỹ các chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh về Cách mạng Việt Nam; về văn hóa, về đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh; những giá trị văn hóa phương Đông và phương Tây; phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin v.v... Điều cốt lõi là người thầy phải có tâm, làm hết sức mình cho các thế hệ học trò. Với tôi, hạnh phúc nhất là cho học trò được nhiều tri thức. Và muốn làm được nhiều nhất thì người thầy luôn phải học, học cho mình và cũng là học cho xã hội. Người thầy luôn luôn hướng cái tâm vào nghề của mình.
Người Thầy dạy sử, dạy tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò như thế nào trong việc hun đúc tình yêu đất nước, tình yêu với Đảng, với Bác và nguyện vọng vào Đảng của lớp trẻ?
Những người thầy dạy lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, dạy tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những người định hướng, giúp các em hiểu, yêu lịch sử đất nước mình. Các thầy là một trong những kênh truyền đến thế hệ trẻ lý tưởng, hoài bão sẵn sàng sống và cống hiến cho Đảng. Nếu mỗi người thầy là những đảng viên gương mẫu, yêu Đảng, yêu nghề thì sẽ ảnh hưởng rất tích cực đến các bạn trẻ. Tôi đã từng tham gia những lớp bồi dưỡng tìm hiểu về Đảng. Khi đứng trên bục giảng, bao giờ tôi cũng nói để các em hiểu Đảng là thế nào, khi mình vào Đảng thì phải làm gì... Và các bạn trẻ cũng xác định được vào Đảng là phải chấp nhận dấn thân, phải rèn luyện, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nếu vào Đảng vì mục đích cá nhân thì đừng vào.
Theo Thầy làm thế nào để có nhiều bạn trẻ có nguyện vọng vào Đảng?
Cần có cách tuyên truyền, động viên các bạn trẻ hiểu hơn về Đảng, tin, yêu Đảng và tự nguyện gia nhập Đảng. Tôi có một người bạn, có con được đi học lớp tìm hiểu về Đảng nhưng không hiểu các thầy đã tuyên truyền thế nào mà về em nói là vào Đảng khô khan lắm và không viết đơn xin vào Đảng. Chúng ta phải xây dựng phong trào hành động cách mạng để lôi cuốn đoàn viên, quần chúng vào Đảng. Ngày xưa, hàng nghìn quần chúng sẵn sàng xả thân, tha thiết vào Đảng vì các phong trào cách mạng tự thân nó đã lôi cuốn bạn trẻ, các tổ chức đảng, đảng viên tạo được niềm tin với quần chúng.
Tôi thấy ngày nay các bạn trẻ khi vào Đảng hay bị vướng mắc về thủ tục hành chính. Có một số người vào Đảng vì động cơ không trong sáng. Vậy tổ chức đảng, những người có trách nhiệm cần có cái nhìn đúng đắn, để lựa chọn, kết nạp vào Đảng những người có tài, đức, sẵn sàng cống hiến cho Đảng. Đối với các bạn trẻ - sinh viên, vào Đảng là môi trường tốt để rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành.
Xin cảm ơn Thầy!
