Giữ hồn làng qua những mái đình cổ

Giữ hồn làng qua những mái đình cổ
Đình Chu Quyến – một trong số ít ngôi đình cổ nhất Việt Nam. (Nguồn: NHN)

(PLVN) Trong đời sống văn hóa Việt Nam, hiếm có công trình nào mang nhiều tầng ý nghĩa như ngôi đình làng. Đình không chỉ là nơi thờ Thành hoàng - vị thần bảo hộ cho làng, mà còn là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa và cộng đồng, kết nối bao thế hệ người dân quê. Giữa dòng chảy hiện đại hóa, nhiều địa phương đang nỗ lực gìn giữ, trùng tu và phát huy giá trị các đình cổ, để “trái tim” của làng Việt không ngừng đập trong nhịp sống hôm nay.

Mái đình - linh hồn và ký ức của làng Việt

Ở bất cứ vùng quê nào của đất nước, khi nhắc đến làng, người ta sẽ nghĩ ngay tới cây đa, giếng nước, sân đình.

Trong suốt hơn một nghìn năm, các di tích thuộc Thăng Long tứ trấn, trong đó có đền/đình Kim Liên luôn giữ vị trí đặc biệt trong không gian văn hóa, lịch sử của Thăng Long - Hà Nội. Đền - đình Kim Liên còn được gọi là đền Cao Sơn, là trấn phía nam trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16 - 17. Đình chính gồm Nghi môn, Đại bái và Cung cấm. Nghi môn là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Bốn bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu chồng rường giá chiêng, cột trốn. Trên các bộ phận kiến trúc các họa tiết trang trí được thể hiện sinh động, công phu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.

Đình Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) được mệnh danh là ngôi đình đẹp nhất xứ Kinh Bắc, khởi dựng từ thế kỷ 18. Đây là công trình kiến trúc tuyệt xảo, độc đáo và giữ được hình ảnh toàn vẹn kiểu thức nhà sàn dân tộc được áp dụng cho kiến trúc đình làng. Vẻ độc đáo của ngôi đình thể hiện ở không gian mái đình tỏa rộng, nét đồ sộ của những đầu đao, quy thức thích nghi với khí hậu gió mùa và trang trí điêu khắc dày đặc. Đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên các bộ phận kiến trúc với hàng trăm đồ án hoa văn phong phú, trở thành những tác phẩm điêu khắc trang trí kiến trúc tiêu biểu của dân tộc thế kỷ 18.

Còn tại xứ Đoài, đình Chu Quyến (Ba Vì, TP Hà Nội) lại là một đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp đình cổ miền Bắc. Đình còn được gọi đình Chàng, niên đại cuối thế kỷ 17, tiêu biểu cho kiến trúc gỗ dân gian truyền thống thời hậu Lê. Cấu trúc mặt bằng kiểu “chữ Nhất” tức là hình chữ nhật nằm ngang. Kiến trúc 3 gian 2 chái. Bộ khung gỗ kiểu chồng rường truyền thống, với đầy đủ 6 hàng cột. Trên hệ kết cấu khung gỗ là những tác phẩm điêu khắc dân gian tinh xảo, miêu tả các cảnh chọi gà, gảy đàn, hát múa dân gian, người cưỡi hổ, cưỡi ngựa, các họa tiết trang trí linh vật như: phượng mẹ và đàn phượng con, rồng là đề tài chủ đạo ở đây và được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau.

Hưng Yên có ngôi đình trăm cột nổi tiếng, đây là một công trình kiến trúc cổ dựng bởi đúng 100 cột gỗ lim, cao to, bề thế, uy nghi. Đó là đình Đa Ngưu, toạ lạc ở địa thế cao đẹp giữa làng Đa Ngưu. Đây là một trong số ít những ngôi đình cổ của Hưng Yên còn giữ được khá nguyên vẹn bố cục, cảnh quan, kiến trúc và các di vật quý giá.

Ngoài ra, các đình Lỗ Hạnh, đình làng Diềm (Bắc Ninh), đình Thổ Tang, đình Hương Canh (Vĩnh Phúc), đình Tây Đằng, đình So (Hà Nội), đình An Dưỡng, đình Kênh (Thái Bình nay là Hưng Yên)… là những báu vật kiến trúc của Bắc Bộ Việt. Mỗi ngôi đình có niên đại nhiều thế kỷ đều có ngôn ngữ riêng: chạm khắc tinh tế, mái cong như lưỡi đao, những bức phù điêu rồng phượng, hổ phù, chim phượng mô tả ước vọng thái bình.

Biểu diễn sử thi về Thần tích Cao Sơn Đại Vương tại Lễ hội đình Kim Liên. (Nguồn: Hồng Thái)
Biểu diễn sử thi về Thần tích Cao Sơn Đại Vương tại Lễ hội đình Kim Liên. (Nguồn: Hồng Thái)

Đình làng là chứng nhân của thời gian, mang trong mình hồn cốt dân tộc. Nhưng hơn cả giá trị vật thể, kiến trúc, đình làng mang giá trị tinh thần sâu sắc - là nơi hội tụ lòng tin, nơi con người gửi gắm khát vọng về sự an lành, đoàn kết, no đủ.

Theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền, với kết cấu tổ chức làng xã, đình làng là sản phẩm của dân tộc Việt Nam, mà không một cộng đồng cư dân nào trên thế giới có được. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đình làng luôn là một biểu tượng văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng quan trọng trong đời sống làng xã người Việt. Vì vậy, việc gìn giữ đình làng cũng chính là để kế thừa, phát huy giá trị văn hóa dân tộc.

Các lễ hội đình làng truyền thống, rước thần, tế lễ, họp bàn việc làng, trò chơi dân gian, đấu vật, hát đối đáp… giúp người dân thêm gắn bó, đình làng không chỉ là di tích, mà là nơi văn hóa sống động, kết nối cộng đồng.

Gìn giữ báu vật của làng

Qua bao thăng trầm, biến thiên của thời gian và lịch sử, do thiên tai, lũ lụt, mối mọt, do đô thị hóa lấn chiếm đất đình có không ít ngôi đình đã xuống cấp nghiêm trọng. Nhiều nơi, người dân thiếu hiểu biết đã sơn sửa sai quy cách, thay ngói, thay tượng gỗ bằng xi măng, làm mất giá trị nguyên bản. Nguồn kinh phí bảo tồn còn hạn chế, trong khi các địa phương chưa khai thác tốt tiềm năng gắn di tích với du lịch cộng đồng. Một vấn đề đáng báo động là sự đứt gãy truyền thống: lớp trẻ ngày nay ít gắn bó với đình làng, lễ hội vắng bóng thanh niên. Nhiều nhà văn hóa lo ngại, nếu không có biện pháp truyền thông, giáo dục phù hợp, nguy cơ “mất hồn” đình làng là điều có thể xảy ra.

Đình Hương Canh nơi sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa và cộng đồng, kết nối bao thế hệ người dân quê. (Nguồn: Khánh Linh)
Đình Hương Canh nơi sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa và cộng đồng, kết nối bao thế hệ người dân quê. (Nguồn: Khánh Linh)

Trước thực trạng đó, một số địa phương người dân và chính quyền đã có tu bổ ngôi chùa và có những mô hình sáng tạo trong việc gìn giữ và phát huy đình cổ.

Đình Hoành Sơn (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) là di tích kiến trúc nghệ thuật đầu tiên của tỉnh Nghệ An được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt. Sau gần 300 năm tồn tại, Đình đã bắt đầu xuống cấp, hư hỏng một số hạng mục, UBND tỉnh Nghệ An cho phép trùng tu, tôn tạo với dự án có tổng mức đầu tư 24 tỉ đồng, từ nguồn vốn đầu tư công trung hạn. Ông Nguyễn Văn Quang, trú xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn, Nghệ An có hơn 25 năm theo nghề mộc chia sẻ những chi tiết gỗ trong đình được chạm trổ rất tinh xảo. Quá trình tu sửa, ông và những người thợ phải cẩn thận, nhẹ nhàng để không làm ảnh hưởng đến những điêu khắc trên gỗ. Đình Hoành Sơn sau khi chỉnh trang sẽ là nơi thờ tự, sinh hoạt cộng đồng và tổ chức các lễ hội lớn của địa phương, phát triển du lịch.

Không chỉ dừng lại ở trùng tu, phục dựng, nhiều địa phương khôi phục không gian sinh hoạt, đưa các hoạt động văn hóa - nghệ thuật, những mô hình sáng tạo trong việc gìn giữ và phát huy đình cổ. Ví như, “Chuyện đình trong phố” là dự án đánh thức các ngôi đình trong khu phố cổ Hà Nội bằng hoạt động đưa nghệ thuật vào triển lãm, quảng bá các nghề truyền thống gắn với phố nghề và Tổ nghề đang được thờ phụng tại đình. Hiện nay, phường Hoàn Kiếm và các nghệ sĩ đã triển khai “Chuyện đình trong phố” tại 7 ngôi đình, gồm: Nam Hương, Hà Vĩ, Tú Thị, Trung Yên, Yên Thái, Phả Trúc Lâm, Hội quán Phúc Kiến.

Còn tại Đình Bảng, mỗi mùa hội Lim hay hội làng, các liền anh, liền chị lại hát giao duyên ngay sân đình. Các bạn trẻ còn học hát quan họ, têm trầu cánh phượng, thắt khăn mỏ quạ, lắng nghe điển tích trong lời ca cổ… Họ không chỉ để gìn giữ một làn điệu xưa, mà để tự mình giữ lấy một phần hồn dân tộc. Tiếng hát quan họ hòa cùng tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng cười dân gian - như nối dài linh hồn của đất Kinh Bắc.

Đình làng Đình Trung (Yên Dương, Thanh Hóa) đã đón nhiều đoàn học sinh tới trải nghiệm tại đây. Các em có cơ hội tìm hiểu lịch sử văn hóa làng quê, di tích đình làng Đình Trung và nâng cao ý thức gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa.

Nhóm Đình làng Việt tổ chức “Tết Việt” tại đình làng So (Quốc Oai, Hà Nội) với các hoạt động đặc trưng của một cái Tết ở vùng Đồng bằng châu thổ Bắc bộ. Lễ dựng cây nêu, nghi thức hát xoan cửa đình, biểu diễn hát then, hát xẩm, chiếu tranh Đông Hồ… Không chỉ có những người Việt, mà còn cả bạn bè quốc tế được sống lại không khí Tết xưa ở vùng Đồng bằng châu thổ Bắc bộ.

Không gian Tết xưa tại đình làng So (Hà Nội), với các nghi lễ dựng cây nêu, dâng lễ, gói và luộc bánh chưng, viết thư pháp, hát cửa đình… (Nguồn: Zing)
Không gian Tết xưa tại đình làng So (Hà Nội), với các nghi lễ dựng cây nêu, dâng lễ, gói và luộc bánh chưng, viết thư pháp, hát cửa đình… (Nguồn: Zing)

Các đình làng được biến thành không gian sáng tạo, sống động với những sáng tạo nghệ thuật được lấy cảm hứng từ chính di tích gắn kết những câu chuyện xưa gần gũi với đời sống hiện đại.

Đặc biệt, nhiều địa phương đã ứng dụng công nghệ số trong bảo tồn: số hóa bản vẽ kiến trúc, tạo tour tham quan 3D, ghi lại lời kể của các bô lão. Điều này giúp lưu trữ tư liệu lâu dài và giới thiệu đình làng đến đông đảo công chúng, nhất là du khách quốc tế.

Mỗi ngôi đình là một trang sử làng, ghi dấu sự hình thành, phát triển và cả biến động của cộng đồng người Việt. Khi một ngôi đình bị mất đi, không chỉ mất đi một công trình, mà mất đi cả một phần ký ức văn hóa.

Bởi thế, việc bảo tồn đình làng không chỉ là trách nhiệm của ngành Văn hóa mà là của mọi người dân - những người đang sống trong “làng Việt đương đại”. Khi tiếng trống hội, tiếng hát chèo, tiếng quan họ lại vang lên nơi mái đình xưa, đó chính là lúc trái tim làng quê lại đập rộn ràng.

Thùy Dương