Trong khuôn khổ Diễn đàn Mekong về Nước, Năng lượng và Lương thực diễn ra cuối tháng 10 tại Myanmar, Viện Quy hoạch thủy lợi Việt Nam cùng các đối tác Viện Di sản Tự nhiên Hoa Kỳ, Mạng lưới Phát triển thủy điện bền vững vùng Mekong, Cơ quan Hợp tác phát triển Đức và Viện Deltare (Hà Lan) đã đồng chủ trì hội thảo kỹ thuật “Hướng tới quản lý lưu vực sông hiệu quả hơn đối với khu vực Mekong – Nhận diện thách thức và cơ hội”.
Phát biểu tại hội thảo, các nhà khoa học đều nhất trí rằng phải bảo vệ nguồn nước sông Mekong vì đây là nguồn nước đóng vai trò quyết định đối với ngành nông nghiệp của khu vực. Các đại biểu cũng nhất trí về sự cần thiết phải bảo vệ châu thổ sông Mekong vì vai trò đặc biệt quan trọng của nó trong việc đảm bảo an ninh lương thực cho các nước tiểu vùng sông Mekong nói riêng và thế giới nói chung.
Tuy nhiên, các đại biểu cũng chỉ ra rằng hạ nguồn sông Mekong đang ngày càng cạn kiệt, ô nhiễm, nguồn thủy sản suy giảm, đe dọa cuộc sống của hàng chục triệu người dân. Nguyên nhân chính là tác động của biến đổi khí hậu và tác động của các nước phía thượng nguồn sông Mekong như hoạt động xây dựng đập thủy điện, điều chỉnh dòng chảy...
Theo thống kê, hiện có tới 144 đập thủy điện đã hoặc đang được triển khai xây dựng hoặc đưa vào vận hành, trong đó có những đập thủy điện lớn được xây trên dòng chính sông Mekong. Các đập thủy điện ảnh hưởng dòng chảy, chế độ lũ, phù sa, bùn cát, chất dinh dưỡng, từ đó tác động nguồn lợi thủy sản, đa dạng sinh học, giao thông thủy, nông nghiệp…
Ngoài ra, Trung Quốc cũng có kế hoạch đào kênh dẫn nước từ sông Lan Thương (phần sông Mekong chảy trên lãnh thổ nước này) vào sông Dương Tử. Thái Lan cũng được cho là đang xây dựng các hồ chứa và vận hành các máy bơm công suất lớn để lấy nước từ sông Mekong… Trong khi đó, theo Báo cáo Đánh giá môi trường Tiểu vùng sông Mekong của Trung tâm Quản lý môi trường quốc tế (ICEM), các dự án thủy điện trên dòng chính và các dự án chuyển nước sông Mekong sẽ làm giảm lưu lượng nước trong mùa khô.
Tình trạng này kết hợp với ảnh hưởng biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao sẽ làm gia tăng xâm nhập mặn, ảnh hưởng đến nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, nhất là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Lượng phù sa bồi đắp cho đồng bằng sẽ giảm từ 26 triệu tấn/năm hiện nay xuống 7 triệu tấn/năm; gia tăng xói lở bờ sông; triệt tiêu cơ hội mở rộng lãnh thổ tại Đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, thủy sản biển, nước ngọt, nuôi trồng bị ảnh hưởng với ước tính tổn thất 0,5-1 tỷ USD/năm; sinh kế của 14 triệu nông dân - ngư dân sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
Theo báo cáo “Tác động của biến đổi khí hậu đối với di cư và sơ tán” của nhóm tác giả đến từ ĐH Liên Hợp quốc tổ chức phi chính phủ CARE International và ĐH Colombia, Đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Nile, Đồng bằng Ganges (Bangladesh) là 3 đồng bằng chịu tác động mạnh nhất của nước biển dâng. Theo đó, nếu mực nước dâng cao 2m vào cuối thế kỷ này, đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất đi gần 1/2 diện tích đất liền; trong vòng 100 năm nữa, khu vực này có thể biến mất khỏi bề mặt Trái đất.
Do đó, các nhà khoa học kêu gọi chính phủ các nước trong khu vực thực hiện đồng bộ một số giải pháp. Trong đó, giải pháp đầu tiên cần thực hiện là đổi mới cách thức quản lý, sử dụng nguồn nước theo hướng mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội phải dựa trên khả năng thực tế của nguồn nước, cân bằng nước, phù hợp các xu thế diễn biến nguồn nước trong tương lai. Theo các nhà khoa học, các khâu từ thiết kế đến quản lý vận hành nhà máy thủy điện ở thượng lưu cần phải xem xét hạn chế tối đa các mặt tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái ở vùng hạ lưu, đặc biệt là vùng đồng bằng châu thổ Mekong.
Các nhà khoa học dự hội thảo cũng kiến nghị tăng cường quan trắc và theo dõi việc sử dụng nguồn nước trên toàn lưu vực, chia sẻ số liệu này cho các quốc gia trong lưu vực. Theo đại biểu cũng cho rằng cần xây dựng cơ sở pháp lý của hợp tác quốc tế thông qua Ủy ban sông Mekong và các tổ chức quốc tế trong việc bảo đảm khai thác, sử dụng công bằng, hợp lý nguồn nước chung của 6 quốc gia trên lưu vực sông và bảo đảm việc sử dụng nước ở bất kỳ một quốc gia nào cũng không được gây thiệt hại đáng kể cho các quốc gia khác theo Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy và thông lệ quốc tế.