Giang mai là bệnh rất dễ lây nhiễm, do vi khuẩn hình xoắn ốc Treponema pallidum gây ra và lây lan qua quan hệ tình dục không an toàn. Bệnh có thể truyền từ người mẹ bị nhiễm giang mai sang thai nhi thông qua dây rốn hoặc nước ối.
Dấu hiệu đầu tiên của bệnh giang mai là những vết loét không đau ở bên ngoài bộ phận sinh dục, hậu môn, hay trực tràng. Vết loét cũng có thể xuất hiện trên môi và trong miệng. Thế nhưng cũng có nhiều trường hợp chẳng có triệu chứng gì, đặc biệt là ở phụ nữ.
Những người mắc bệnh mà không có triệu chứng nên không biết rằng họ đã mang bệnh và có thể lây truyền nó cho những người khác. Sau khi điều trị bệnh giang mai, phụ nữ vẫn có thể tái nhiễm nên họ phải đảm bảo sẽ tiếp tục kiểm tra định kỳ.
Theo CNN dẫn thông tin từ CDC, đây là năm thứ 5 liên tiếp, số lượng người mắc bệnh lậu, giang mai tăng ở Mỹ. Chỉ riêng trong năm ngoái, tổng cộng có 2,4 triệu ca nhiễm bệnh được chuẩn đoán.
8 trong 10 phụ nữ mang thai mắc giang mai không được điều trị sẽ truyền bệnh sang em bé qua nhau thai. Điều này có thể khiến 40% trường hợp thai nhi bị ảnh hưởng, cụ thể là thai nhi sẽ bị chết lưu hoặc tử vong ngay sau khi sinh.
Đã có những báo cáo thực tế từ CDC, số lượng mang thai mắc bệnh giang mai ở Mỹ được ghi nhận tăng từ 362 lên 918 trường hợp từ năm 2013-2017. Trong đó, 5 tiểu bang: Arizona, California, Florida, Louisiana và Texas chiếm tới 70% các trường hợp.
Các trường hợp còn lại nằm rải rác ở 32 tiểu bang và chủ yếu là các bang miền Tây và miền Nam. Bên cạnh đó, mặc dù tỷ lệ giang mai tăng nhanh nhất ở nam giới, chiếm hơn 88% các ca nhiễm trong năm 2017. Thế nhưng tỷ lệ bệnh ở phụ nữ cũng đang tăng lên.
Nguyên nhân khiến tỷ lệ nhiễm giang mai tăng mạnh có thể là do sự thay đổi về hành vi tình dục, chẳng hạn như không sử dụng bao cao su. Theo CDC công bố thông tin hồi năm ngoái, tỷ lệ sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục tăng 46,2% lên 62,8%, trong khoảng thời gian từ năm 1991 - 2005. Tuy nhiên sau đó từ 2005 – 2017, bắt đầu giảm 62,8% xuống còn 53,8%.
Tiến sĩ Pablo Sanchez tại Trung tâm Nghiên cứu khí quyển thuộc Đại học Tự trị Quốc gia Mexico cho biết, “Tôi không ngạc nhiên khi biết tỷ lệ giang mai bẩm sinh đang gia tăng, vì tôi biết hiện tại bệnh giang mai ở phụ nữ và trẻ em ở mọi lứa tuổi đang tăng lên không ngừng. Nhưng dù còn không ngạc nhiên, nhưng nó sẽ là mối bận tâm lớn”.
Triệu chứng giang mai bẩm sinh thường gặp: Trẻ sinh ra bị suy dinh dưỡng, cân nặng thấp hơn 2,5 kg. Trên da có nhiều bọng nước lớn, khu trú ở lòng bàn tay, lòng bàn chân; nhiều khe nứt ở miệng, hậu môn; sổ mũi, mủ và máu do loét các xương sụn ở mũi; loét họng làm tiếng trẻ khóc khàn trầm lạ tai; có nhiều hồng ban và sần ngoài da.
Còn có những tổn thương khác như: Xương khớp - gặp trong 80% các tổn thương giang mai bẩm sinh, viêm xương sụn vào tháng thứ 2 - 3 sau sinh; gan to và xơ hóa, lách to, viêm thận, viêm tinh hoàn, viêm màng não, viêm dây thần kinh thị giác, thiếu máu.
Tiến sĩ Pablo Sanchez giải thích, “Bệnh giang mai nếu không được điều trị ở phụ nữ mang thai sẽ khiến thai nhi chết lưu hoặc chết sau khi sinh. Ngoài ra, nếu thai nhi sống sót nhưng vẫn ảnh hưởng về sức khỏe. Đó là lý do vì sao cần phải kịp thời phát hiện và chữa trị khi phụ nữ mang thai phát hiện nhiễm bệnh”.
Phía CDC đã ra khuyến cáo, phụ nữ khi mang thai cần tiến hành kiểm tra sàng lọc nhiều lần, dù không phát hiện dấu hiệu, nhằm ngăn ngừa và điều trị bệnh trước khi quá muộn. CDC cũng kêu gọi các tiểu bang trên cả nước cần phải có biện pháp làm giảm tỷ lệ mắc giang mai, đồng thời cải thiện sức khỏe sinh sản của bà mẹ và trẻ sơ sinh.
Hiện tại, giang mai có thể điều trị dễ dàng với penicillin, một loại thuốc đã được tìm ra từ những năm 1940. Với một liều tiêm cho mẹ ngay sau khi được chẩn đoán và trong vòng 30 ngày sau khi sinh, thì trong hầu hết trường hợp có thể giảm nguy cơ lây nhiễm cho cả mẹ và con. Nếu đứa trẻ sinh ra bị giang mai bẩm sinh, các bác sĩ có thể điều trị bằng một đợt kháng sinh 10 ngày hoặc bằng 1 liều tiêm.