“Gã nông phu trên cánh đồng cười”

Được tôn vinh là người thứ hai trong “tam tiếu đình” của làng cười đương đại, sau Chóe (1943-2003), nhưng Lý Trực Dũng vẫn chỉ nhận mình là họa sỹ biếm a-ma-tơ.

Làm nghề “cọ quẹt châm chích” trên nhiều trang báo nổi tiếng, đã tiếp xúc với những người góp phần tạo nên “làng cười Việt Nam”, đã thẩm định và đánh giá rất nhiều tác phẩm trong các cuộc thi biếm họa quy mô toàn quốc, và được tôn vinh là người thứ hai trong “tam tiếu đình” của làng cười đương đại, sau Chóe (1943-2003), Lý Trực Dũng vẫn chỉ nhận mình là họa sỹ biếm a-ma-tơ.

 
Họa sỹ biếm - anh hề dũng cảm

“Biếm sỹ” Lý Trực Dũng là một trong những cây cọ hài hước ít ỏi và quý hiếm của nước nhà. Đồng nghiệp khen ông giỏi, thì cái điệu cười của ông lại được dịp “vặn to” hết cỡ: “Giỏi quái gì, tôi chỉ được cái cần cù như con ong”. Tôi cười: “Nhưng mà là ong mật”. Mà đúng thế, hiểu được bản chất, sự thâm thúy của biếm họa, người ta mới thấy nó đúng là mật ngọt vừa thơm, vừa bổ đem lại tiếng cười sảng khoái và có tác dụng chữa cả “bệnh” cho mọi người.

Lý Trực Dũng vốn là một Kiến trúc sư, tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Weimar - Đức năm 1973 (nay là Đại học Bauhaus). Thời gian sống và làm việc tại đây, ông đã bồi đắp được những kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực “cầm cọ chọc thiên hạ”. Tranh của ông được đăng đầy trân trọng trên các tạp chí biếm họa và nhật báo như: Eulenspiegel, Fur Dich, FreieWelt, Tribune, Bauer Zeitung, Das Magazin, Die Welt... Ông đã vinh dự được nhận nhiều giải thưởng uy tín như Giải biếm họa International Biennal of Humor (Cuba 1983), Giải biếm họa International Cartoon Festival Knokk Heist (Bỉ 1984)...

Họa sỹ biếm cao 1,8m, dáng dấp nho nhã có phần khắc khổ, cô liêu... và có tiếng là “nhiều đam mê” đã không phủ nhận mình là người... “đào hoa” và rất coi trọng tình yêu cuộc sống. Ông ví mình trót mê biếm họa như người ta mê đá bóng hay ngồi quán nhậu, thậm chí bỗ bã hơn nữa là như ngắm con gái trẻ đẹp mỗi lần qua phố. Ông bảo mình vẽ tranh cũng giống một cô nàng mơ mộng thích viết nhật ký để lưu giữ cuộc đời, có hơn chăng ông muốn tự giễu cuộc đời, bởi theo quan điểm của ông, chỉ những người thông minh và dũng cảm mới tự giễu cuộc đời mình như thế.

Coi tranh biếm họa như là cái mũi trên khuôn mặt của một con người, nếu cái mũi mất đi thì khuôn mặt con người đó cũng không thể hoàn chỉnh và mất đi độ tinh nhạy. Mỗi bức tranh biếm họa ông vẽ đều cố gắng “ngửi” thấy được những vấn đề của xã hội, ông tìm thấy trong rất nhiều những thứ nhộn nhạo đan xen giữa cái xấu và cái tốt, cái hào nhoáng bên ngoài và cái trần trụi bên trong. “Biếm họa không giễu cợt cái tốt, biếm họa chỉ giễu cợt cái xấu, cái tồn tại trong từng con người và trong cuộc sống”, người họa sỹ được coi là “trưởng lão” của làng “biếm cọ” nước ta hiện nay đã nói như thế.

Có câu chuyện về bà đầm thép M. Thatcher của nước Anh từng “bị” các họa sỹ biếm dành “tặng” một vài bức tranh “có tính xây dựng”. Bà Thatcher chỉ cười và bảo: “Chẳng có ai trên đời là hoàn thiện. May mà nhà biếm họa giúp tôi biết mình chưa hoàn thiện ở điều gì”.

Theo Lý Trực Dũng, bản chất của biếm họa là xây dựng và hướng thiện, là đấu tranh, nhưng đấu tranh cũng cần phải tinh và khéo, bởi vì: “Đơn giản thôi, bản thân như tôi và bạn chẳng hạn, ai cũng có những cái xấu trên mặt mình, ai chẳng có những khuyết điểm, đó là cái tự nhiên. Nếu với những khuyết điểm của tôi, người nào “chọc ngoáy” tôi nhẹ nhàng hơn một chút, tế nhị hơn một chút thì tôi sẽ cảm thấy rất thoải mái, nhưng nếu mạt sát tôi mà để tôi nổi khùng lên thì rất dở. Biếm họa khôn ngoan vừa có tay nghề khéo léo của ông bác sỹ vừa có sức mạnh của... “ông hàng thịt”. Cho nên nói đến biếm họa là nói đến “chông gai và… hoa hồng”, nghề của những anh hề dũng cảm dám đương đầu với đám đông”.

Biếm họa... nghề nguy hiểm?

“Theo biếm họa mãi, “chống” mãi ông không mệt à?” - “Thực sự là rất mệt!”, họa sỹ cũng nhận định, nghề biếm họa thực sự là nghề nguy hiểm và trên thế giới đã ghi nhận không ít “biếm sỹ” gặp khó khăn, bất trắc khi công bố những tác phẩm biếm họa có sức chiến đấu cao và lay động mạnh mẽ.

Lý Trực Dũng bảo rằng, chỉ kẻ nào có tật mới sợ biếm họa và ghét biếm họa. Các họa sỹ biếm họa nhận thức rõ điều đó. Nhưng họ không sợ, họ dám dấn thân vì nghiệp biếm họa mà mình theo đuổi vì tin ở lẽ phải và công lý. Điển hình như hoạ sỹ biếm Honore’ Daumier (1808-1879). Chỉ vì bức tranh giễu cợt vua Pháp Louis Philippe tham lam như cái thùng không đáy mà năm 1832, họa sỹ biếm đã bị tống giam 6 tháng tù. Ấy vậy nhưng khi ông ra tù, tranh của ông còn sâu sắc hơn, cay hơn và được quần chúng đón nhận mạnh mẽ hơn. Giờ thì ông được cả thế giới tôn vinh.

Nói về giá trị vật chất mà nghề biếm được “hưởng”, Lý Trực Dũng nhẩm tính đầy chua chát: “Hồi tôi đi học ở Đức về, những năm 80, 10 tranh biếm họa bằng một tháng lương hơn 70 đồng, nay thì một bức biếm họa của tôi được khoảng 250.000 đồng. Còn các anh em khác ở các nơi chỉ 100.000-180.000 đồng, vậy thì ai mà theo được biếm họa để sống?”. Buồn nhất là lớp họa sỹ biếm trẻ, kế cận quá mỏng, được vài bạn thì cũng đã ở cái tuổi 30, hầu như tuổi 20 không có ai, mặc dù lớp trẻ rất có điều kiện để vẽ, truyền bá biếm họa”.

Chưa kể “thân phận” họa sỹ biếm nhiều lúc “không rõ ràng” khi đứng giữa “hai làn nước” mỹ thuật và báo chí, chưa thực sự có được bên nào làm chỗ dựa vững chắc và hỗ trợ về mặt tổ chức, nghề nghiệp. Thoáng cau mày, họa sỹ trăn trở: “Bây giờ nhiều báo có đăng tranh biếm họa thì cũng chỉ như cho thêm một tý húng, tý hành cho nó có màu mè đỡ khô khan, hoặc đỡ bị thắc mắc, vì sao báo anh không có tranh biếm họa?. Tranh biếm họa thì chọn cái loại na ná minh họa, chi chít lời để cho... công chúng dễ hiểu”! Khi đăng thì tranh bé tý bằng cái bao diêm hoặc nhỉnh hơn một chút. Người xem muốn hiểu nó thì... phải sắm kính lúp!”.

Ông tiếc nuối nhưng rồi vui lại ngay: “Nhưng mà nghề nghiệp đã chọn ta thì sẽ như là định mệnh, còn đam mê đã thấm vào người thì muôn kiếp sẽ vẫn chẳng thể dứt ra. Trách nhiệm của người họa sỹ biếm họa đối với xã hội rất to lớn”.

“Nhát cuốc động thổ” cho nghiên cứu biếm họa VN

Lý Trực Dũng đã lao vào “cuộc khảo ngược gian nan” về chặng đường gần một thế kỉ tranh biếm họa Việt Nam, được khởi mốc bằng những bức tranh đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo “Người cùng khổ” (Le Paria) từ tháng 4/1922-4/1926. Và rồi những miệt mài suốt 3 thập kỷ qua của “ông Lý”, sưu tầm, biện luận, hoạt động truyền thông... liên quan đến tranh biếm đã được gom “gọn” trong sách “Biếm hoạ Việt Nam” (NXB Mỹ thuật và Công ty Nhã Nam), giới thiệu trong triển lãm và toạ đàm cùng tên diễn ra đầu tháng 3 vừa qua, tại Trung tâm Văn hóa Pháp.

Ông kể: “Tôi cũng vào Nam ra Bắc đủ cả, đến gặp gỡ gia đình những họa sỹ đã mất và... chưa mất, rồi hỏi han, phỏng vấn, xin tư liệu, đối chiếu chéo, thậm chí là hỏi nhiều nguồn khác nhau để bổ sung và kiểm chứng thông tin”. Nhờ đó, công chúng được biết những bức tranh biếm đã gắn bó cùng dòng chảy đất nước suốt từ thời thuộc Pháp đến 9 năm kháng chiến trường kỳ, sang chiến tranh đánh Mỹ, đến những năm hòa bình nối liền thế kỷ XX-XXI.

Trong cuốn sách, Lý Trực Dũng biết cách tiếp cận và “vẽ” lại chân dung những nhân vật theo cách riêng của mình. Đó là những đại diện cho lớp họa sỹ tài năng đã tham gia vào việc “kiến tạo” nên một nền tranh biếm họa nước ta như Nguyễn Gia Trí “bậc thầy biếm họa”, Tô Ngọc Vân - người góp phần quan trọng trong lịch sử phát triển biếm họa Việt Nam những năm 30 thế kỷ trước, Phan Kích với những bức biếm họa mang nhãn quan chính trị sâu sắc, Mai Văn Hiến “họa sỹ biếm chiến khu”, Nguyễn Bích, tác giả lớn của biếm họa thời chống Pháp...

Gần đây hơn là họa sỹ nổi tiếng mà người ta biết đến bút danh nhiều hơn tên thật như Chóe, Ớt, Nhím... Bên cạnh đó là những gương mặt “tuổi trẻ tài cao” ghi dấu ấn đặc biệt trong làng biếm họa Việt Nam hiện đại, đặc biệt là chân dung biếm như DAD, Còm, Khoái, Nốp, LEO, LAP...

Họ đã góp phần giúp cuộc đời vui vẻ hơn, trong sạch hơn với những tiếng cười, cay chua có, giận dữ có, hào hứng, hả hê có, lại cả tươi tắn, trẻ trung, dí dỏm đầy trìu mến...

Nhẩn nha kể chuyện bằng những câu chữ mộc mạc, gần gũi nhưng giàu thông tin, nối kết hài hòa với nhiều giai thoại, sự kiện, Lý Trực Dũng không có tham vọng lớn xây dựng nên một khảo cứu quy mô và tầm vóc về biếm họa Việt Nam mà đơn thuần mong muốn nó sẽ là “một nhát cuốc động thổ cho một tập hợp nghiên cứu hoàn chỉnh và tiệm cận hơn về lịch sử nghệ thuật biếm họa Việt Nam trong tương lai”.

Gắn bó bền bỉ suốt hơn ba thập niên với biếm họa, cùng việc cho ra đời tập sách “Biếm họa Việt Nam”, ông đã cần mẫn gom nhặt trải nghiệm của bản thân và những am hiểu quý báu về biếm họa - “đứa con dĩnh ngộ của báo chí” trên hành trình “hoằng dương” nghệ thuật và lịch sử biếm họa Việt Nam đến với công chúng. Gọi Lý Trực Dũng là “gã nông phu trên cánh đồng cười” – như cách gọi của nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân hẳn đúng. Cười đấy, nhưng nơi đó có đủ cả nhân tình và thế thái, hạnh phúc và khổ đau, yêu thương và căm giận...

Thu Hồng