Vấn đề được đề cập tại Hội thảo “Thực trạng xuất nhập khẩu và chuyển dịch FDI ngành gỗ” do Hiệp hội Gỗ và Lâm sản VN (Vifores) phối hợp với một số Hiệp hội gỗ địa phương tổ chức cuối tuần qua…
Tăng trưởng “nóng”- mừng ít, lo nhiều…
Theo báo cáo của Vifores, năm 2018 có 529 DN FDI trong ngành gỗ trực tiếp tham gia xuất khẩu (XK), với kim ngạch XK đạt gần 3,96 tỷ USD, chiếm 46,7% trong tổng kim ngạch XK 8,48 tỷ USD của ngành. Trong 9 tháng năm 2019, con số này đã tăng lên 565 DN, với tổng kim ngạch gần 3,4 tỷ USD, tương đương 46,6% trong tổng kim ngạch XK (7,3 tỷ USD) cho các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ của cả ngành. Không chỉ trực tiếp tham gia vào XK, nhiều DN FDI khác hiện đang cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các DN chế biến, cung cấp dịch vụ logistic và các loại hình dịch vụ khác…
Theo ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Vifores, các DA FDI đã, đang và sẽ tiếp tục là một bộ phận không thể thiếu được của ngành gỗ VN. Ông Quyền cũng khẳng định những tháng cuối năm là thời cơ đẩy mạnh XK để ngành có thể đạt kim ngạch XK 11 tỷ USD trong năm nay, trong đó có đóng góp quan trọng của DN FDI.
Tuy nhiên, đại diện Vifores cũng bày tỏ lo ngại khi FDI ngành gỗ đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ về gian lận thương mại và “chỉ cần xảy ra đối với một đơn vị cũng tức là xảy ra với ngành”.
Chuyên gia lâm nghiệp và thương mại gỗ đến từ Tổ chức Forest Trends, ông Tô Xuân Phúc nhận định, FDI vào lĩnh vực chế biến gỗ của VN đã tăng rất nhanh, kể từ năm 2018. Đặc biệt, trong 9 tháng đầu năm 2019, FDI ngành gỗ có nhiều thay đổi so với năm 2018. Không chỉ đối với các DA mới tăng “nóng” (67 DA bằng cả năm 2018 với 581 triệu USD bằng 2,3 lần số vốn đăng ký của cả năm 2018), mà ở loại hình các DA tăng vốn, mặc dù số lượt DA tăng vốn không tăng nhiều, nhưng lượng vốn tăng trong các DA này rất lớn (30 lượt bằng 83% với 200,4 triệu USD tăng 75,2% so với cả năm 2018). Trong khi đó, ở loại hình đầu tư góp vốn, mua cổ phần, cả lượt DA và quy mô vốn đều giảm mạnh (123 lượt bằng 64,7% với 134,4 triệu USD, bằng 21,2% so với cả năm 2018).
Đáng chú ý, TQ là quốc gia dẫn đầu trong danh sách các quốc gia đầu tư vào ngành gỗ VN. Trong 9 tháng năm 2019, số DA FDI từ TQ đầu tư mới vào VN là 40, chiếm gần 60% trong tổng số DA đầu tư. Tuy nhiên, tổng vốn đầu tư của các DA từ quốc gia này chỉ chiếm 23,5% trong tổng số vốn đầu tư đăng ký. Nhìn chung, các DA FDI từ TQ có quy mô nhỏ. Trong số 15 DA có quy mô dưới 1 triệu USD đầu tư mới có đến 10 DA từ TQ, tương đương 67%. Trong số này, có một nhà máy sản xuất ván tại Yên Bái, với vốn đầu tư đăng ký chỉ 23.000 USD.
“Nhiều nghiên cứu cho rằng trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đang diễn ra VN là một trong những quốc gia được hưởng lợi. Tuy nhiên, trong ngành gỗ, đã có một số tín hiệu cho thấy gian lận thương mại. Một số mặt hàng gỗ của TQ được nhập khẩu vào VN, sau đó XK vào Hoa Kỳ với nhãn mác của VN. Gian lận thương mại cũng có thể diễn ra dưới hình thức “đầu tư chui” hay “đầu tư núp bóng” với DN nước ngoài vào VN, thuê nhà máy, nhà xưởng của VN, nhập khẩu hàng hóa sơ chế từ TQ vào sơ chế tại đây sau đó XK sản phẩm vào Mỹ với nhãn mác VN. Đây là những rủi ro rất lớn cho ngành gỗ của VN…”- Chuyên gia phân tích của Forest Trends cảnh báo.
Lập barie rà soát các hình thức đầu tư FDI
Theo ông Tô Xuân Phúc để phát triển bền vững, bên cạnh những việc làm quan trọng khác (như bền vững về nguồn nguyên liệu, nâng chất lượng nguồn nhân lực, thiết lập và tăng cường kết nối giữa 2 khối), ngành gỗ cần phải có những cơ chế chính sách hữu hiệu để giảm các rủi ro trong đầu tư FDI.
Theo đó, Chính phủ cần thực hiện kiểm soát rủi ro trong FDI có thể bắt đầu bằng việc rà soát cả 3 loại hình đầu tư, bao gồm đầu tư mới, các DA tăng vốn và DA mua cổ phần. Ưu tiên rà soát cần tập trung vào các DA đầu tư mới, có quy mô nhỏ, đặc biệt là 15 DA đầu tư mới năm 2019, bao gồm nhiều DN TQ, với vốn đăng ký dưới 1 triệu USD /DA. Việc rà soát cũng có thể mở rộng với các DN có quy mô vốn tương tự, đăng ký đầu tư năm 2018. Chính phủ sau đó có thể mở rộng việc rà soát, với các DN có vốn đầu tư khoảng 1-3 triệu USD/DA và một số DA tăng vốn, mua cổ phần, tập trung vào các DA sản xuất ván. Việc rà soát cần nhìn nhận vào các khía cạnh đầu vào của nguồn nguyên liệu và đầu ra của sản phẩm, công suất tiêu thụ nhiên liệu và tiêu thụ điện năng, sử dụng lao động.
Tiếp đến Chính phủ cần thu thập thông tin về tình trạng “đầu tư chui”, “đầu tư núp bóng”. Các hiệp hội gỗ địa phương là một trong những kênh thông tin quan trọng và hữu hiệu để thu thập thông tin về các hình thức đầu tư này nhằm cung cấp cho các cơ quan quản lý. Chính phủ cần tạo kênh kết nối trực tiếp với đại diện các hiệp hội, nhằm cập nhật thông tin về thực trạng đầu tư, từ đó đưa ra các cơ chế, chính sách can thiệp kịp thời nhằm hạn chế các rủi ro.
Đại diện Vifores, ông Nguyễn Tôn Quyền đề xuất, Chính phủ cũng cần có cơ chế cho phép các hiệp hội gỗ mở rộng thành viên của mình với các DN FDI nhằm giúp tăng cường trao đổi thông tin, từ đó góp phần giảm thiểu các xung đột lợi ích giữa các DN. Thông tin từ các DN FDI cũng giúp cho các hiệp hội nắm bắt được các thông tin có chất lượng về thực trạng đầu tư FDI, bao gồm thông tin về các hoạt động “đầu tư chui”, “đầu tư núp bóng”. Nguồn thông tin này có vai trò quan trọng, giúp cho các cơ quan quản lý hình thành các “bộ lọc” hiệu quả trong kiểm soát đầu tư FDI trong ngành…
Cùng với đó, nhiều chuyên gia cùng cho rằng, Chính phủ nên thành lập tổ công tác đặc biệt, bao gồm các cơ quan quản lý trực tiếp có liên quan như cơ quan phụ trách xuất nhập khẩu, phòng vệ thương mại, hải quan, đầu tư nước ngoài, cơ quan cấp C/O, các hiệp hội gỗ…, để kiểm tra và xử lý vấn đề liên quan đến gian lận thương mại.
Nhiều lô hàng XK đi Mỹ không có chứng nhận C/O
Bà Trần Thị Thu Hương, Giám đốc Trung tâm Xác nhận chứng từ thương mại – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, trước đây nhiều lô hàng gỗ XK sang Mỹ không yêu cầu chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O), tuy nhiên khi căng thẳng thương mại Mỹ- Trung nổ ra, phía Mỹ yêu cầu phải có C/O.
Dẫn số liệu cấp C/O của VCCI với số liệu XK của Hải quan, bà Hương cho biết đã có sự chênh lệch khá lớn cho thấy nhiều lô hàng xuất đi nhưng không có chứng nhận C/O của VCCI. Đại diện VCCI cũng cho biết, thời gian qua việc cấp C/O cho các DN gỗ đang chậm hơn so với các mặt hàng khác, nhất là đối với các DN lần đầu tiên xin cấp C/O, bởi đơn vị này phải cử người đi thực tế kiểm tra cơ sở sản xuất để xem cơ sở có đủ năng lực sản xuất sản phẩm đó hay không mới cấp C/O.