Cụm từ “bình đẳng nam- nữ” được đưa vào Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946. LHQ đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng thể chế thuận lợi nhằm mang lại quyền lợi và cơ hội phát triển cho phụ nữ. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội, trong tương quan với nam giới, phụ nữ vẫn thuộc nhóm những người có thu nhập thấp, yếu thế. Tình trạng bất bình đẳng giới trong việc tiếp cận và hưởng lợi từ các quyền, nguồn lực hoặc tiếng nói thường gây bất lợi cho phụ nữ nhiều hơn...
Lao động nam, nữ làm công việc có tính chất hoặc giá trị ngang nhau thì tiền lương, tiền công và chế độ bảo hiểm xã hội như nhau |
Một số nguyên tắc bình đẳng giới quan trọng bị bỏ qua
Tiến bộ về bình đẳng giới là một yêu cầu bắt buộc để Việt Nam đạt được 8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, trong đó có mục tiêu số 3 là tăng cường bình đẳng giới và nâng cao năng lực cho phụ nữ, mà Việt Nam cùng với 188 quốc gia khác đã nhất trí thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc vào năm 2000. Những mục tiêu này đảm bảo mọi việc chính phủ tiến hành đều nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội và lợi ích chung sẽ được phân phối công bằng cho cả nam giới và phụ nữ.
Cụm từ “bình đẳng nam - nữ” đã được đưa vào Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946. Và trong vòng mười năm trở lại đây, từ Nghị quyết 23 của Đảng (3/2003) thì ba chữ “bình đẳng giới” đã được đưa vào thực tiễn. Tuy nhiên, chúng ta thấy nguyên nhân sâu xa của bất bình đẳng giới đã làm chậm lại quá trình đạt tới những mục tiêu bình đẳng giới mà Chính phủ đã đề ra; cản trở nỗ lực xây dựng xã hội mà ở đó cả nam giới và phụ nữ đều được hưởng lợi từ những thành tựu của sự phát triển.
Hơn ai hết, những người làm công tác phụ nữ, là người thấm thía hơn cả hậu quả của tình trạng bất bình đẳng giới trong việc phụ nữ tiếp cận và hưởng lợi từ các quyền, nguồn lực…, cũng như những sự bất cập của luật pháp trong vấn đề này, để từ đó, có những đóng góp xác đáng cho công cuộc toàn dân góp ý kiến cho dự thảo Hiến pháp sửa đổi, bổ sung đang được tiến hành.
Theo quan điểm của Ths. Hà Thanh Vân - Phó Ban Chính sách Luật pháp, TƯ Hội LHPN Việt Nam, nhìn tổng thể, dự thảo Hiến pháp tiếp tục thể hiện các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong các Điều 17 (sửa đổi, bổ sung Điều 52), Điều 27 (sửa đổi, bổ sung Điều 63) và một số quy định khác trong chương quy định về quyền con người và quyền công dân. Tuy nhiên, từ góc độ bảo đảm bình đẳng giới, có 3 khía cạnh cần được quan tâm thể hiện thêm trong các quy định của dự thảo Hiến pháp.
Đó là về cơ hội bình đẳng của nam, nữ trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, dự thảo cần bổ sung vào Điều 15 quy định về vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tạo ra cơ hội và bảo đảm thực hiện bình đẳng giới trong mối liên hệ với quyền con người, quyền công dân. Điều 27 (sửa đổi, bổ sung Điều 63) mặc dù đã được thiết kế theo hướng ngắn gọn, nhưng mới thể hiện được khía cạnh bình quyền, chưa đảm bảo được sự tiến bộ và còn có xu hướng lùi khi bỏ qua một số nguyên tắc bình đẳng quan trọng.
Bà Vân đề nghị, ngoài quy định “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới” đã thiết kế, thì nên sửa lại điều này theo 3 khoản sau: Công dân nam, nữ bình đẳng về quyền và cơ hội tham gia, đóng góp, hưởng thành quả lao động trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và gia đình; Lao động nam, nữ làm công việc có tính chất hoặc giá trị ngang nhau thì tiền lương, tiền công và chế độ bảo hiểm xã hội như nhau; Công dân nam, nữ có trách nhiệm chia sẻ, hỗ trợ nhau trong gia đình, tại nơi làm việc, học tập, lao động và các hoạt động xã hội khác.
Theo bà Vân, quy định như vậy nhằm khẳng định nguyên tắc bình đẳng không chỉ về quyền (khía cạnh pháp luật) mà còn bình đẳng cả về cơ hội (khía cạnh thực tế) cho cả nam và nữ trong tất cả các lĩnh vực, làm cơ sở để cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành; bảo đảm phù hợp với các Công ước Liên Hợp Quốc và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về lao động mà nước ta là thành viên; và khẳng định nguyên tắc hợp tác, chia sẻ của công dân bảo đảm để gánh nặng công việc không dồn lên một người, bảo đảm mỗi người đều có điều kiện thực hiện đầy đủ quyền con người và quyền công dân của mình
Phụ nữ cần được “chăm mầm” ngay từ khi là bé gái
Về đặc thù giới tính nữ trong mối tương quan với các vấn đề của quốc gia, cộng đồng xã hội và gia đình, theo Ths. Hà Thanh Vân - Phó Ban Chính sách Luật pháp, TƯ Hội LHPN Việt Nam, do sự khác biệt về giới tính sinh học nên nam, nữ (trẻ em trai, gái) có nhiều điểm khác nhau trong việc thực hiện và hưởng lợi ích từ quyền con người và quyền công dân của mình.
Thực tế đã chứng minh nếu những vấn đề của nam, nữ không được quan tâm một cách hợp lý theo hướng bảo đảm hài hòa cả quyền và cơ hội cho mỗi người phù hợp với giới tính sinh học sẽ có nguy cơ tạo nên khoảng cách mà bất lợi thường nghiêng về phụ nữ và trẻ em gái. Mặt khác, về tự nhiên, trẻ em gái sẽ là phụ nữ trong tương lai.
Từ đó, trên cơ sở Điều 40, Điều 63 hiện hành, các khía cạnh khoa học về giới và các vấn đề thực tiễn, đề nghị bổ sung thêm 1 Điều gồm 4 khoản: Phụ nữ có vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt trong tái tạo nguồn nhân lực, có quyền hưởng chế độ thai sản phù hợp với lao động thực tế; Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo đảm cơ hội bình đẳng và hỗ trợ các điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và thiên chức người mẹ; Gia đình có trách nhiệm giáo dục thành viên chia sẻ công việc và bảo đảm để phụ nữ thực hiện làm mẹ an toàn; Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tạo cơ hội và hỗ trợ điều kiện để trẻ em gái phát triển toàn diện, bảo đảm thực hiện tốt vị trí, vai trò của phụ nữ trong tương lai.
Quy định như vậy nhằm khẳng định sự khác biệt về chức năng sinh sản không thể viện dẫn để đưa ra bất cứ sự so sánh nào giữa nam và nữ trên thực tế và khẳng định quyền bảo đảm sinh sản an toàn của phụ nữ; bảo đảm kết quả thực hiện quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của phụ nữ như nam giới; bảo đảm giảm bớt gánh nặng công việc cho phụ nữ và bảo đảm cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức làm mẹ; và bảo đảm sự phát triển toàn diện và mang tính tự thân nhân quả là: Nhà nước, xã hội và gia đình muốn có một công dân khỏe mạnh, thông minh thì cần có một bà mẹ khoẻ mạnh,có kiến thức và năng lực; muốn có một bà mẹ hội tụ đủ những yếu tố cần thiết cho con khỏe mạnh, thông minh thì họ cần được chăm sóc, giáo dục tốt từ khi còn là trẻ em gái – bà Vân nhấn mạnh.
Hồng Minh (tổng hợp)