Đừng để sự đã rồi
Năm 2008, trên địa bàn thành phố xảy ra 162 vụ tai nạn lao động, với 170 người bị nạn, trong đó 18 người thiệt mạng, 26 người bị thương nặng. So với năm 2007, số vụ tai nạn giảm, nhưng nhiều vụ có tính chất nghiêm trọng hơn, trong đó có vụ tai nạn làm 7 công nhân Công ty cổ phần lắp máy và xây dựng 69-2 thiệt mạng. 3 tháng đầu năm 2009, trên địa bàn thành phố xảy ra 6 vụ tai nạn chết người.
Những vụ tai nạn đau lòng
Ngày 5-7-2008, ca làm việc của Tổ xếp dỡ số 2 Cảng cá Hạ Long bắt đầu vào lúc 18 giờ và kết thúc lúc 24 giờ. Tổ gồm 4 người do ông Nguyễn Văn Hòa làm tổ trưởng, ông Nguyễn Văn Quang, công nhân lái cẩu và 2 công nhân bốc xếp là Nguyễn Tiến Mạnh và Phạm Văn Toản. Đến 20 giờ 55 phút, Tổ bốc xếp cẩu được 4 mã hàng lên xe ô-tô. Mã hàng thứ 5 gồm các thanh thép hình chữ I, thép hộp hình vuông có kích thước khác nhau được lái cẩu Nguyễn Văn Quang hạ xuống, đặt trên 4 mã hàng trước thành công. Nhưng phụ xe và lái xe ô-tô đề nghị công nhân bốc xếp ra tín hiệu yêu cầu lái cẩu đưa mã hàng nhích về phía đầu xe. Lúc này, anh Mạnh và Toản đang đứng trên mã hàng thứ 4 để ra tín hiệu và điều chỉnh mã hàng. Khi mã hàng được nâng lên, anh Toản phát hiện thanh thép hình vuông ở trên xe ô-tô có hiện tượng mất ổn định, nên anh Toản nhảy xuống, không may trượt chân ngã. Thanh thép hình vuông trên và thanh thép khác rơi theo. Một trong 2 thanh thép trên đập vào đầu khiến anh Toản bị thương nặng và thiệt mạng trên đường đi cấp cứu. Anh Toản sinh năm 1973, ở Tiên Lãng, có vợ và con nhỏ 3 tuổi.
Trường hợp của công nhân Nguyễn Văn Trụ, sinh năm 1977 làm việc ở bộ phận máy dập Phân xưởng vỏ (Công ty cổ phần đóng tàu Sông Cấm) cũng rất thương tâm. Hồi 15 giờ 45 ngày 21-3-2009, trong khi sử dụng máy ép thủy lực, do thanh thép kê phía dưới không chắc, bắn văng vào đầu khiến anh Trụ bị thương nặng và tử vong vào ngày hôm sau.
Trong số các vụ tai nạn gây chết người, phần lớn những người thiệt mạng đều ở độ tuổi còn khá trẻ, chủ yếu từ 18 đến 40, lại là lao động chính trong các gia đình. Do vậy, các vụ tai nạn lao động không chỉ để lại nỗi đau về tinh thần mà ít nhiều còn ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của những người thân trong gia đình, để lại gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Tăng cường kiểm tra, giám sát
Để giảm thiểu tai nạn lao động, một trong những biện pháp được nhiều đơn vị, doanh nghiệp thực hiện là tổ chức các lớp tập huấn về vệ sinh-an toàn lao động. Thông qua các lớp học này, học viên nắm được quy trình an toàn lao động cũng như những nguy cơ về tai nạn lao động. Tuy nhiên, ít đơn vị thực hiện tốt quy định. Nhiều khi xảy ra tai nạn, những đơn vị này không thông báo với cơ quan quản lý nhà nước mà tự thương lượng với người bị nạn. Có trường hợp người bị nạn không được doanh nghiệp quan tâm, thậm chí chối bỏ trách nhiệm. Do vậy, các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường giám sát, kiểm tra tại các đơn vị, doanh nghiệp, nhất là nơi có nguy cơ cao như các ngành cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá, đóng tàu, doanh nghiệp tư nhân và làng nghề…
Hiện có 75% các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về về an toàn-vệ sinh lao động được kiểm định và đăng ký. Qua giám sát môi trường lao động tại 26 doanh nghiệp cho thấy, 2.697 mẫu nhiệt độ, độ ẩm và tốc độ gió được kiểm tra thì có 5% số mẫu vượt tiêu chuẩn cho phép; 759 mẫu ánh sáng có 4,7% số mẫu không đạt tiêu chuẩn; 710 mẫu tiếng ồn có 25% vượt tiêu chuẩn cho phép.
Thực tế cho thấy công tác thanh tra, kiểm tra ở Hải Phòng vẫn là khâu yếu. Theo thống kê, năm 2008, chỉ có 5-7% số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố được thanh tra. Như vậy, thay vì thanh tra toàn diện trên diện rộng, công tác thanh tra chủ yếu mới chỉ dừng ở mức làm điểm. Theo Chánh thanh tra Sở LĐ-TB-XH Phùng Văn Nắm, sở dĩ có tình trạng này là do do lực lượng thanh tra hiện nay quá mỏng nên không thể tổ chức thanh tra toàn diện. Thành phố chủ trương bổ sung nhân lực thanh tra, nhưng đến nay việc này vẫn chưa được triển khai.
Vấn đề không phải có được bổ sung nhân lực hay không mà quan trọng là trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, người lao động cần nâng cao ý thức về vệ sinh-an toàn lao động. Trong trường hợp công nhân phải làm việc trong môi trường độc hại, ẩn chứa nguy cơ cao về mất an toàn-vệ sinh lao động, người lao động yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện nghiêm theo quy định như tổ chức tập huấn, trang bị thiết bị bảo hộ cần thiết. Đối với những ngành nghề có nguy cơ cao mất an toàn lao động, người lao động không được lơ là, chủ quan, bởi chỉ một sai sót nhỏ sẽ phải trả giá đắt bằng tính mạng của mình. Các cơ quan quản lý nhà nước chủ động đến với người lao động, mở thêm kênh thông tin nắm bắt nguyện vọng, tiếp nhận ý kiến và hỗ trợ người lao động khi họ yêu cầu./.
Minh Nhật