Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài: Thúc đẩy di chuyển lao động có tay nghề
(PLVN)Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, năm 2025 hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tiếp tục duy trì quy mô lớn trong bối cảnh kinh tế - xã hội ổn định và hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng. Sang năm 2026, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài sẽ tái cấu trúc thị trường và nâng cao chất lượng nguồn lao động, chuyển từ phái cử lao động giản đơn sang thúc đẩy di chuyển lao động có tay nghề; đẩy mạnh chuyển đổi số, cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình, tạo thuận lợi tối đa cho người dân và doanh nghiệp...
Trong năm 2025, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đạt 144.345 người, vượt 11% so với kế hoạch đề ra. Nhật Bản tiếp tục là thị trường tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam nhất với hơn 64.600 người, tiếp đến là Đài Loan (Trung Quốc) với hơn 57.000 lao động và Hàn Quốc với hơn 11.600 lao động.
Bên cạnh các thị trường truyền thống, một số thị trường châu Âu như Đức, Ba Lan, Hungary, Romania… ghi nhận xu hướng tăng rõ nét, nhất là trong các lĩnh vực điều dưỡng, hộ lý và lao động kỹ thuật. Đây được xem là tín hiệu cho thấy hoạt động đưa lao động ra nước ngoài đang từng bước dịch chuyển sang các thị trường có yêu cầu cao hơn về kỹ năng và trình độ.
Không chỉ gia tăng về số lượng, năm 2025 cũng ghi nhận bước tiến đáng kể trong hoàn thiện thể chế. Cục Quản lý lao động ngoài nước đã tham mưu trình Chính phủ sửa đổi Nghị định 112/2021/NĐ-CP về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; đồng thời xây dựng các thông tư mới liên quan đến chi phí dịch vụ, môi giới, hướng tới minh bạch hóa và bảo vệ tốt hơn quyền lợi người lao động.
Song song đó, nhiều bản ghi nhớ hợp tác lao động với các quốc gia, đối tác nước ngoài được ký kết hoặc gia hạn, tạo hành lang pháp lý ổn định cho hoạt động đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài trong giai đoạn tới.
Sang năm 2026, trong bối cảnh bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, khiến hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đối mặt với nhiều thách thức hơn cơ hội, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hướng tới thị trường thu nhập cao, siết kỷ cương, bảo vệ người lao động.
Cục Quản lý lao động ngoài nước tập trung hoàn thiện thể chế, tham mưu sửa đổi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và xây dựng Chiến lược đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Tái cấu trúc thị trường và nâng cao chất lượng nguồn lao động, chuyển từ phái cử lao động giản đơn sang thúc đẩy di chuyển lao động có tay nghề; siết chặt công tác kiểm tra, giám sát doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển đổi số, cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình, tạo thuận lợi tối đa cho người dân và doanh nghiệp.
Cũng theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, từ 1/1/2026, theo Nghị định số 338 quy định chi tiết một số điều của Luật Việc làm về chính sách hỗ trợ tạo việc làm, người lao động được vay tối đa 100% tổng chi phí mà họ phải trả trước khi đi làm việc ở nước ngoài, theo hợp đồng ký kết giữa người lao động và doanh nghiệp dịch vụ, đơn vị sự nghiệp.
Khoản vay không bao gồm các khoản chi đã được ngân sách nhà nước hỗ trợ theo quy định như: giáo dục định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề, ngoại ngữ; đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng nghề theo thỏa thuận…
Đối với mức vay trên 200 triệu đồng, người lao động phải thực hiện bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ngân hàng Chính sách xã hội về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Thời hạn vay vốn tối đa bằng thời hạn hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, không bao gồm thời gian gia hạn hợp đồng.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được tính lãi suất vay vốn bằng 127% lãi suất vay vốn đối với hộ nghèo (theo từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định). Riêng người lao động là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo; người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo đang sinh sống tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ; đối tượng khác do Chính phủ quyết định căn cứ tình hình kinh tế - xã hội và yêu cầu cho vay vốn giải quyết việc làm… được áp dụng lãi suất vay vốn đối với hộ nghèo (theo từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định).