Về cơ bản, các quy định tại Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 63/2016/NĐ-CP được đánh giá là cụ thể, rõ ràng, thống nhất với Nghị định, có thể áp dụng được ngay trên thực tế khi văn bản phát sinh hiệu lực.
Tuy nhiên, liên quan đến quy định về các tài liệu gửi tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được kiểm tra, đánh giá lần đầu của đơn vị đăng kiểm quy định, Điều 12 Dự thảo quy định, đơn vị đăng kiểm phải cung cấp các tài liệu bao gồm: Hồ sơ, giấy tờ chứng minh tổ chức thành lập đơn vị đăng kiểm thỏa mãn quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 63 (khoản 4); các văn bản về nghiệm thu công trình xây dựng đưa vào sử dụng (kèm theo các bản vẽ tổng thể, bản vẽ bố trí thiết bị, dây chuyền kiểm định) và phòng cháy chữa cháy, theo quy định của pháp luật hiện hành (khoản 5).
Khoản 1 Điều 21 Nghị định 63 quy định hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới bao gồm: Văn bản đề nghị kiểm tra cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới; Danh sách trích ngang các chức danh làm việc tại đơn vị đăng kiểm kèm theo hợp đồng lao động theo quy định hoặc quyết định tiếp nhận đối với đăng kiểm viên, nhân viên nghiệp vụ kiểm định; quyết định bổ nhiệm đối với phụ trách dây chuyền kiểm định và người đứng đầu đơn vị đăng kiểm; Danh mục thiết bị kiểm tra, dụng cụ kiểm tra, thiết bị thông tin, lưu trữ, truyền số liệu theo quy định. Các giấy tờ này tương ứng với các tài liệu quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 12 Dự thảo.
Như vậy, có thể thấy các loại tài liệu quy định tại khoản 4, 5 Điều 12 Dự thảo là chưa phù hợp, vượt quá quy định tại Điều 21 Dự thảo. Hơn nữa, xét về tính minh bạch, không rõ hồ sơ, giấy tờ nào chứng minh “tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới không được kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, bảo dưỡng, sửa chữa xe cơ giới hoặc có liên quan trực tiếp với tổ chức kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, bảo dưỡng, sửa chữa xe cơ giới.
Nếu tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới là công ty cổ phần thì tổ chức, cá nhân kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, bảo dưỡng, sửa chữa xe cơ giới chỉ được nắm giữ không quá 10% cổ phần của tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới” (đã được quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 63).
Việc quy định chung chung về loại tài liệu chứng minh điều kiện này khiến cho các đối tượng áp dụng không có sự thống nhất trong thực tế áp dụng và đơn vị kiểm định gặp khó khăn khi xuất trình các loại giấy tờ chứng minh.
Để đảm bảo tính thống nhất và minh bạch, các chuyên gia pháp luật cho rằng, cần xem xét bỏ hai loại tài liệu trên ra khỏi Hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới quy định tại Điều 12 Dự thảo, tức là bỏ khoản 4, 5 Điều 12.
“Đồng thời, thiết kế một điều khoản riêng hướng dẫn chi tiết các loại tài liệu chứng minh đơn vị đăng kiểm không vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 63 và các tài liệu này sẽ được xuất trình khi cơ quan nhà nước kiểm tra việc chấp hành pháp luật của đơn vị đăng kiểm, chứ không phải là tài liệu trình khi đề nghị cấp phép” – văn bản của VCCI gửi Bộ Giao thông Vận tải đề xuất.