Tại cuộc họp báo, ông Trần Hải Đông, Trưởng đoàn kiểm toán dự án đường sắt trên cao (chuyên ngành 5 KTNN) cho biết, dự án được điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư ban đầu tư 8.700 tỷ lên 18.000 tỷ đồng.
Phân tích nguyên nhân dự án này nhiều lần lùi tiến độ, ông Đông cho rằng là do quá trình lập dự án chưa nghiên cứu kỹ so sánh kỹ thuật và lựa chọn dẫn đến trong quá trình thay đổi phương án, làm tăng chi phí; bổ sung khối lượng di chuyển các công trình hạ tầng kỹ thuật ra khỏi chỉ giới mặt bằng khu nhà ga; bàn giao mặt bằng chậm và tiến độ thực hiện kéo dài, dẫn đến chi phí nhân công vật liệu tăng cao.
Ngoài ra, trong quá trình lập phê duyệt dự án đầu tư vẫn còn một số tồn tại.
Thứ nhất, khi dự án tăng vốn thêm hơn 10.000 tỷ đồng, chủ đầu tư chưa báo cáo Chính phủ để xem xét báo cáo xin chủ trương của Quốc hội về vấn đề này, do liên quan đến vấn đề nợ công;
Thứ hai, khi phân tích tính kinh tế của dự án, chủ đầu tư chưa xem xét về chi phí vận hành vốn chiếm tỷ trọng lớn trong giai đoạn khai thác, dẫn đến việc đánh giá về hiệu quả kinh tế không chính xác. Và thực tế ngay từ ban đầu đã báo lỗ.
Thứ ba, tổng mức đầu tư điều chỉnh có một số chi phí thiết bị, đào tạo hay hạng mục khác cơ sở chưa đầy đủ, KTNN đã đề nghị bổ sung.
Thứ tư, về việc phê duyệt điều chỉnh cơ cấu tổng mức đầu tư thì có bổ sung trả nợ gốc của phần vay lại của phần vay bổ sung, khi chưa có quyết định đã tăng thêm 400 tỷ đồng.
Về tiến độ dự án, ông Đông cho hay, ban đầu dự án dự kiến thi công từ 2008 đến 11/2013 là xong, tuy nhiên sau đó khi ký hợp đồng EPC thì thời gian thực hiện trong 48 tháng, tức 4 năm kể từ 2010. Song, từ đó đến nay, qua rất nhiều lần điều chỉnh dự án vẫn chưa đưa vào khai thác sử dụng.
Theo ông Đông, lý do là bởi đây là dự án đường sắt đô thị đầu tiên thực hiện ở Việt Nam nên cơ quan thẩm quyền mất nhiều thời gian nghiên cứu để ban hành chính sách áp dụng, như xác định chủ đầu tư, tiêu chuẩn kỹ thuật, cơ chế tài chính.
Hơn nữa, quá trình lập dự án đầu tư còn một số tồn tại phát sinh, như thỏa thuận phương án kiến trúc, phê duyệt điều chỉnh dự án và tiến độ bàn giao mặt bằng chậm từ 1-5 tháng.
Ngoài ra, quy định về hồ sơ thiết kế giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng có khác biệt, dẫn tới thời gian thiết kế, thẩm tra, thẩm định phê duyệt cũng bị điều chỉnh nhiều lần. Tổng thầu thực hiện dự án được chỉ định trực tiếp từ Hiệp định khung giữa Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc, chính vì thế tiến độ thực hiện phụ thuộc rất lớn vào vốn, vào tổng thầu.
Chưa kể, theo quy định của hợp đồng EPC, thiết kế kỹ thuật tổng dự toán phải được hoàn thành nộp chủ đầu tư trong vòng 9 tháng kể từ ngày bắt đầu thực hiện hợp đồng (1/1/2010) tuy nhiên thực tế kéo dài thêm 1 năm rưỡi, tức tháng 6/2011, Bộ GTVT buộc phải cho phép thực hiện thiết kế từng phần. Quá trình này ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian thực hiện. Cùng với đó, quá trình chọn nhà thầu cung cấp đoàn tàu cũng chậm, ảnh hưởng đến tiến độ dự án.
Trao đổi thêm về vấn đề này, ông Đào Xuân Tiên, Phó Tổng KTNN, cho rằng, trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm tiến độ dự án Cát Linh - Hà Đông thuộc về khâu thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán chậm. Lỗi từ đó dẫn đến cái sai của Bộ GTVT, khi Bộ này chấp thuận sau đó là xóa quy định, hay ký kết, thống nhất cho phép thiết kế kỹ thuật từng phần theo tiến độ.
“Người ta phải thiết kế hết mới theo khuôn khổ thì ông lại cho phép thiết kế từng phần theo tiến độ, chắp vá như thế ảnh hưởng tiến độ và có thể rủi ro về vấn đề chất lượng. Đó là vấn đề tôi cho rằng trong quản lý nhà nước, Bộ GTVT cần phải nghiêm túc rút kinh nghiệm” Phó Tổng KTNN nhấn mạnh.
Liên quan đến lĩnh vực giao thông, KTNN kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ KH&ĐT trình cấp có thẩm quyền xử lý dứt điểm việc chuyển đổi 4 dự án của Tổng Công ty đầu tư và phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) từ hình thức cho vay lại sang hình thức Nhà nước đầu tư trực tiếp; trong khi chưa được chấp thuận tiến hành các thủ tục điều chỉnh giảm kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 của 04 dự án VEC 22.010 tỷ đồng; thu hồi kế hoạch bốn đã giao cho 04 dự án VEC năm 2016 là 3.866 tỷ đồng, năm 2017 là 5.338 tỷ đồng và năm 2018 là 2.319 tỷ đồng.