Lần này, quân Mỹ đã được chuẩn bị kỹ càng hơn để đối phó với các chiến thuật mà du kích quân có thể triển khai, trong đó có việc đem theo nhiều thiết bị đặc dụng. Thế nhưng tất cả những loại vũ khí này cũng đều không thể khuất phục được hệ thống địa đạo Củ Chi.
Thiết kế đặc biệt chống khí hơi cay
Mỹ bắt đầu triển khai đối pháp để chống lại địa đạo. Chúng bơm khói vào hầm để xác định các cửa ra vào còn lại. Phương cách này không khiến du kích quân phải chui ra khỏi hầm, nhưng nó giúp người Mỹ đoán biết được quy mô khổng lồ của hệ thống địa đạo khi khói bay ra ở những lối ra vào khác.
Hơi cay (CS) – một loại chất không gây chết người thường được dùng chống bạo động – cũng được sử dụng để đẩy du kích ra khỏi các đường hầm. Việc bơm khí CS đã khiến các nạn nhân sợ hãi khi mắt, mũi, miệng của họ bị bỏng rát.
Ở trên mặt đất, có rất nhiều cách để chạy thoát khỏi một vụ tấn công bằng khí CS – nhưng đối với người dưới hầm, lối đi rất hạn chế. Khác với lính Mỹ, quân du kích thường không được trang bị mặt nạ chống khí độc. Vì thế, họ chỉ có thể chịu đựng những luồng khí bỏng rá; hoặc tìm lối thoát ra khỏi hầm.
Một lính Mỹ có vẻ rất hồi hộp khi phát hiện một miệng hầm |
Cố Thiếu tướng Trần Hải Phụng, tư lệnh của lực lượng tại địa đạo Củ Chi, kể lại: “Ban đầu, người Mỹ dùng lựu đạn hoặc thuốc nổ để phá hầm nhưng không mấy thành công bởi cách thức này chỉ phá được một phần địa đạo nhỏ”.
“Sau này, họ dùng vòi phun hơi cay sâu vào lòng địa đạo. Mục đích của việc xịt hơi cay là khiến cho người trong hầm nghẹt thở hoặc phải chuyển qua vị trí khác. Nhưng ngay cả phương pháp này rốt cuộc cũng không hiệu nghiệm vì chúng tôi đã biết được các đối phó”.
Nguyễn Thành Linh, một trung úy Quân Giải phóng (QGP) vào thời điểm Chiến dịch Crimp được triển khai, đã mô tả về hình dạng đường hầm và phương cách đối phó với khí CS: “Địa đạo có các tầng khác nhau. Tầng thứ nhất sâu chừng một mét rưỡi tới hai mét. Việc chia địa đạo thành nhiều tầng là để bảo vệ người trú ẩn trong các vụ nổ.
Đó không hẳn là tầng hầm theo cách hiểu thông thường, mà là các đoạn hầm ngắn được đào ở độ sâu khác nhau. Chỉ có hệ thống hầm chính mới được thiết kế như thế này. Sau khi đường hầm chính kéo dài khoảng năm mét, người ta bắt đầu đào xuống dưới, ở độ sâu cách tầng thứ nhất chừng hai mét.
Một vài hầm có tầng thứ ba, được đào ở độ sâu cách tầng thứ hai chừng một mét rưỡi tới hai mét. Độ rộng đường hầm chỉ đủ cho một người bò. Vì thế, di chuyển qua một đoạn hầm dài hai cây số có thể mất tới hai tiếng đồng hồ. Tầng hầm càng sâu thì càng khó di chuyển vì độ rộng giảm xuống.
Khí được bơm vào hầm chính sẽ khó lan xuống tầng phía dưới. Tuy nhiên, nếu khí được bơm vào tầng dưới thì chắc chắn sẽ lan lên tầng phía trên rất nhanh. Một khi khí vào cả ba tầng thì sẽ rất nguy hiểm cho người trong hầm.
Vì thế chúng tôi đã thiết kế cửa sập để ngăn mỗi tầng lại. Nếu ở tầng dưới nghe phía bên trên có người kêu khi bị trúng khí thì chúng tôi sẽ sập cửa lại để ngăn khí lan tỏa”.
Một phương pháp khác được sử dụng để chống khí CS đó là kiểu thiết kế đoạn nối địa đạo hình chữ U. Hầm chữ U được đào xuống sàn ở phía cuối địa đạo chính, sâu xuống một mét rưỡi, sau đó chạy ngang một đoạn ngắn rồi đi ngược trở lại ngang bằng với tầng hầm thứ nhất. Điểm nối chữ U này giống như một khúc ngoặt ở đường hầm chính.
Trong vài trường hợp, miệng hầm chữ U có một cửa sập được ngụy trang kỹ, khiến cho “lính chuột chũi” của quân Mỹ tưởng rằng chúng đã tới cuối hầm chính. Đôi lúc hầm được bơm đầy nước để ngăn khí CS hoặc khói lan từ phần này sang phần khác của hầm chính.
Có thể ngăn được hơi cay nhưng hầm nối hình chữ U lại trở thành một chướng ngại đối với người di chuyển dưới hầm, bởi tới những điểm nối này họ phải nín thở lặn xuống nước để sang phần hầm chính bên kia.
Khi bị trúng khí CS thì các du kích quân hầu như chẳng thể làm được gì nhiều để đối phó. “Bộ đội được hướng dẫn rằng trong trường hợp không thể chạy thoát thì hãy đái lên khăn tay rồi trùm lấy miệng và mũi”, ông Nguyễn Thành Linh kể.
Đội quân “chuột chũi” chuyên lần mò đường hầm |
“Theo hiểu biết của chúng tôi về đông dược, chất amoniac có trong nước tiểu làm giảm đau đớn vì bỏng hơi cay. Đây cũng là cách làm giảm đau khi da bị cháy nắng. Trong trường hợp ấy”, ông Linh nói thêm, “sử dụng nước tiểu không có gì khó cả”.
Bất chấp bơm nước, xe bọc thép, bom rơi…
Khi việc sử dụng hơi cay không mấy thành công, quân Mỹ đổi qua dùng nước. Tướng Phụng giải thích: “Địa đạo cách không xa sông Sài Gòn nên họ thường lấy máy bơm và dùng ống dài để bơm nước làm ngập hầm.
Nhưng cũng giống như tàu thủy, hệ thống địa đạo của chúng tôi sử dụng cửa không thấm nước để ngăn các phần hầm khác nhau. Chúng tôi cũng không đứng yên nhìn người Mỹ lắp máy bơm. Mỗi lần thấy họ đặt máy là chúng tôi xả súng vào máy móc và người vận hành để họ không làm được”.
Trong những ngày cuối của Chiến dịch Crimp, người Mỹ càng thất vọng bẽ bàng hơn khi một chiến thuật mới đưa vào đã thu được rất ít kết quả.
“Sau khi xác định được một nơi nghi vấn có hầm ngầm, quân Mỹ liền cho xe tăng chạy qua chạy lại để làm sập hầm”, một cựu binh cho biết. Nhưng phương pháp này không mấy thành công bởi quân du kích trong quá trình chuẩn bị đối phó Chiến dịch Crimp đã tiên liệu được nên đào hầm rất sâu, đến mức sức nặng của con quái vật bằng thép khổng lồ phía trên chẳng thể làm sập được.
Phương cách hiệu quả nhất để chống hầm ngầm đó là không kích. Chiến thuật này được thực hiện bằng các loại bom 500 và 750 cân Anh của máy bay B-52 hoặc bom khoan do các máy bay nhỏ hơn thả xuống.
“Chúng tôi thường biết trước thời điểm ném bom”, Tướng Phụng nói. “Chúng tôi thường quan sát các dấu hiệu cho thấy sắp sửa có oanh tạc. Một trong những phương pháp đó là theo dõi hoạt động ở căn cứ không quân.
Một lính Mỹ bị thương khi xâm nhập địa đạo |
Trinh sát sẽ thông báo về thời gian máy bay được tập hợp trên phi trường để chuẩn bị cất cánh. Một dấu hiệu khác đó là việc quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đột ngột rút khỏi một số khu vực được dự đoán là mục tiêu tấn công của máy bay Mỹ”.
Một trong những chiến thuật được du kích địa đạo áp dụng để tránh bom B-52 dựa trên niềm tin rằng sét không đánh một nơi hai lần.
“Máy bay B-52 thường để lại một dải hố bom ở những nơi mà nó bay qua”, ông Phụng giải thích tiếp. “Vài phút sau sẽ có một chiếc máy bay nữa bay tới nhưng quả bom sau không bao giờ rơi đúng ngay vị trí quả bom trước.
Vì thế, giữa các đợt bom, chúng tôi quan sát xem hố bom vừa được tạo nên nằm ở đâu. Nếu hố bom nằm ngay trên một đoạn hầm nhưng không khiến hầm sập, chúng tôi sẽ rời vị trí của mình và chui vào nấp trong đoạn hầm vừa bị trúng bom ấy”.
Bản thân ông Phụng từng chứng kiến sự hiệu nghiệm của kỹ thuật tránh bom này. Sau khi ông đến một hầm ngầm vừa bị bom dội trúng nhưng không sập, chỗ hầm mà ông vừa bỏ lại đã bị bom phá hủy.
“Sau Chiến dịch Cedar Falls (cuộc tấn công của Mỹ vào khu vực Tam giác sắt một năm sau Chiến dịch Crimp, từ 8 - 26/1/1967)”, tướng Phụng cho biết, “người Mỹ đã chế tạo ra loại bom mới. Bom này không nổ trên mặt đất mà chui xuống lòng đất. Thiết bị hẹn giờ sẽ kích hoạt bom nổ khi đã khoan sâu vào lòng đất.
Độ sâu của bom tùy thuộc vào địa hình và loại đất. Lần đầu tiên tôi đối mặt với loại bom này là vào tháng 4/1967. Một chiếc F-5 bổ nhào rất sâu, cho trái bom rơi ra theo một góc phù hợp để có thể khoan sâu.
Lính Mỹ dùng súng phun lửa tấn công các miệng hầm |
Chiến thuật của chúng tôi là đợi tới khi máy bay bổ nhào thì dùng tiểu liên và súng máy bắn. Khi ấy chưa có phương tiện phòng thủ nào khác để chống máy bay. Việc thả một trái bom chính xác để phá hủy địa đạo không hề đơn giản, nó đòi hỏi kỹ thuật cao. Nhưng một khi bom ném trúng thì có thể gây ra thiệt hại khó lường”.
Mỗi viên đạn diệt một kẻ thù
Người Mỹ đã có thể khiến cho du kích dưới lòng đất khổ sở, và ngược lại, du kích cũng khiến cho người Mỹ trên mặt đất gặp vô vàn khó khăn. Quân Mỹ hoạt động ở vùng Củ Chi mỗi khi tìm cách tiến quân đều thường xuyên bị các tay súng bắn tỉa tấn công. Nhờ yếu tố bất ngờ cũng như có thể định vị mục tiêu dễ dàng, quân du kích đã nắm lợi thế - và họ luôn bắn phát nào trúng phát đó.
“Mỗi thành viên của đội bắn tỉa chỉ được cấp 100 viên đạn mỗi ngày”, Tướng Phụng tiết lộ. “Với cơ số đạn hạn chế như vậy, nhưng khi chiến đấu, lực lượng bắn tỉa vẫn gây cho địch nhiều thiệt hại. Phương châm của chúng tôi là mỗi viên đạn diệt một kẻ thù.
Khi hết đạn, họ sẽ dùng lựu đạn. Nếu một người đang đánh nhau còn một người không thì người sau san sẻ bớt đạn cho người trước. Chúng tôi phát động thi đua, khen thưởng cho người bắn tỉa hạ được nhiều địch nhất”.
Mỗi khi bị bắn tỉa, quân Mỹ liền tập trung bắn trả về phía viên đạn đối thủ vừa phát ra – nhưng thường là quá muộn. Tay súng du kích luôn trồi lên từ địa đạo, nổ súng và trở về nơi an toàn trong lòng đất trước khi quân Mỹ nhận ra mình bị tấn công. Ông Phụng tuyên bố: “Du kích quân rất bình tĩnh khi chạm trán đối phương, chính vì thế chúng tôi luôn chiến đấu hiệu quả”.
Thiết lập một vành đai phòng thủ không hẳn mang lại cho quân Mỹ sự bảo vệ an toàn. Vành đai phòng thủ của Mỹ có khi được lập ngay trên một hệ thống địa đạo. Trong trường hợp như thế, người Mỹ chỉ phát hiện ra khi có một du kích quân trồi lên từ cánh cửa sập ngay bên trong vành đai phòng thủ, nổ súng và sau đó biến mất.
Lính Mỹ co cụm trong một cuộc hành quân càn quét khu địa đạo Củ Chi |
Chiến dịch Crimp kết thúc vào ngày 14/1/1966. Từ góc nhìn của người Mỹ, chiến dịch thành công bởi nó đã cho phép quân Mỹ có một cái nhìn mới về khả năng của đối phương, dẫn tới việc thu thập được một số tài liệu, lương thực và vũ khí, cũng như ít nhất là tạm thời đẩy đối phương lui khỏi một phần căn cứ dưới lòng đất.
Từ góc nhìn của QGP, đã thành công khi chống lại Chiến dịch Crimp bởi qua đó, QGP đã trở nên tự tin hơn về khả năng đánh Mỹ, đã gây ra tổn thất lớn cho quân địch và cũng chứng minh được rằng một đội quân ít hơn vẫn có thể duy trì được vị trí sâu trong lãnh địa địch tại Củ Chi – cho dù vị trí đó nằm dưới lòng đất.
Sau Chiến dịch Crimp, Mỹ còn mở nhiều đợt tấn công vào khu vực. Một năm sau Crimp, Chiến dịch Cedar Falls được phát động với sự tham gia của hầu hết các đơn vị Lục quân từng có mặt hồi Chiến dịch Crimp. Lần này, quân Mỹ đã được chuẩn bị kỹ càng hơn để đối phó với các chiến thuật mà du kích quân có thể triển khai, trong đó có việc đem theo nhiều thiết bị đặc dụng.
“Sau thất bại của Chiến dịch Crimp”, Tướng Phụng kể tiếp, “họ tiếp tục mở thêm nhiều chiến dịch. Cuộc tấn công lớn nhất là Chiến dịch Cedar Falls với sự tham gia của nhiều quân hơn cũng như một lực lượng cơ giới có cả máy ủi. Chúng tôi vẫn sử dụng chiến thuật cũ trong khi họ triển khai chiến thuật mới để phá địa đạo. Họ đã dùng máy ủi để “bóc vỏ trái đất”.
Nhưng sau Chiến dịch Crimp, chúng tôi đã đào địa đạo sâu hơn, khiến quân địch khó phát hiện. Chẳng biết địa đạo nằm ở đâu nên quân Mỹ đem theo nhiều xe ủi dàn thành từng hàng – thường là mười hai chiếc, có khi cả tiểu đoàn được huy động cùng lúc.
Nếu sau khi ủi mà không tìm thấy gì lạ, họ sẽ chuyển tới nơi khác để ủi tiếp. Chiến thuật này rất nguy hiểm, nhưng chúng tôi đã dùng súng chống tăng để bắn xe ủi. Phía Mỹ sau đó đã điều rất nhiều quân chỉ để bảo vệ xe”.
Việc sử dụng xe ủi không làm du kích quân bất ngờ. Trinh sát đã theo dõi những chuyển động bên trong các căn cứ Mỹ trước Chiến dịch Cedar Falls. Những gì trông thấy giúp họ biết rằng xe ủi sắp được sử dụng.
Ông Phụng kể: “Chúng tôi thấy xe ủi được huy động bên trong căn cứ quân sự Mỹ trước khi chiến dịch bắt đầu. Khi biết rằng họ sẽ dùng xe ủi, chúng tôi quay sang tìm hiểu xem họ sẽ ủi ở đâu để đem mìn và chất nổ cài ở những nơi ấy. Xe ủi tỏ ra hiệu quả hơn xe tăng trong việc phá hầm ngầm, nhưng chúng tôi đã đào hầm sâu hơn nên cả hai loại xe này đều không gây tổn thất lớn”.
Lục quân Mỹ còn dùng chó để đánh hơi nơi ẩn náu của đối phương. Nhưng rồi họ cũng chẳng thu được mấy thành công bởi du kích quân đã chuẩn bị đối phó. Họ sử dụng ớt bột rải trên đất để ngăn chặn chó đánh hơi.
(Còn tiếp)