Cổng làng xưa đã mất…
Ông Bùi Ngọc Nhân, Trưởng ban Di tích làng Thành Công cho biết, thực tế chiếc cổng làng Thành Công hiện nay mới được xây dựng khoảng đầu thập niên 90 của thế kỷ trước và ông là người trực tiếp được tham gia đội xây dựng cổng làng.
Cổng được xây dựng nhờ sự góp công, góp của của bà con trong làng mà người khởi xướng là ông Lê Đình Hậu (một người con của làng Thành Công), cựu chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Chiếc cổng cũ được những người cao niên trong làng mô tả lại để nhà điêu khắc Lê Minh Đỉnh vẽ thành hình dáng chiếc cổng hiện nay.
Ông Nhân cũng cho biết, vị trí đặt cổng cũ cũng không phải nơi đặt chiếc cổng làng hiện nay. Vì nhiều điều kiện và lý do khách quan mà người làng quyết định đặt chiếc cổng làng hiện nay ở một địa thế độc đáo khi nằm cạnh Khách sạn Fortuna và chếch bên kia đường là Đại sứ quán Mỹ.
Ông Nguyễn Đại Việt, một người con của làng Láng kể lại, khoảng 80 năm về trước, cha ông đã nhiều lần ra vào cổng làng thăm người quen, nhớ rằng người làng này có học vấn, giỏi giang, có đủ bốn giới sĩ, nông, công, thương và có đóng góp nhiều cho kinh thành Thăng Long xưa. Cha ông vẫn nhớ chiếc cổng làng xưa đẹp lắm, uy nghi bề thế, trên vòm cổng đề chữ Do Chi, với hàm ý mọi sự phát triển sinh, thành của dân làng đều bắt nguồn từ trước chiếc cổng làng.
Ông Việt cũng đã từng được theo cha qua cổng làng Thành Công, nghe các cụ chuyện trò với nhau về chiếc cổng làng. Ai nấy đều khẳng định, dù người làng có đi làm ăn nơi đâu, làm nên sự nghiệp hiển hách gì thì khi về đến chiếc cổng làng sẽ thấy như trẻ thơ, xốn xang, cảm giác như được chở che, bao bọc. Và ai ai cũng ngồi lại cổng làng chuyện trò, chào hỏi các cụ già qua lại như một cách để trở về tuổi thơ.
Theo trí nhớ của ông Việt, cha ông còn nói cổng làng cũ có đôi cột hoa, trên đó có đắp nổi chữ Nho, nét bút tài hoa như rồng bay phượng múa. Cha ông cũng đã cố gắng tìm các tư liệu để có thể biết được tên người vẽ lên những nét chữ này nhưng không thể tìm được. Cha ông bảo, cứ nhìn nét chữ thì thấy đây hẳn là chữ của một “cây đại thụ” chữ Nho hoặc bậc túc nho xứ kinh kỳ.
Trên mỗi vế đối đều ghi đủ những thứ làm nên niềm tự hào của người làng: Tạo thứ tứ dân thành đại nghiệp/Do chi thiên tải kỷ tiên công.
Tạm dịch: Từ ấy tứ dân thành nghiệp lớn/Do đây vạn thuở nhớ công xưa.
Cổng làng mới hiện nay cũng ghi lại đôi câu đối này, bởi truyền thống làng Thành Công vẫn được viết tiếp và giữ gìn cho con cháu đời sau; cũng như gốc gác Thành hoàng làng vẫn được các cụ truyền lại cho con cháu vào mỗi dịp lễ rước của làng.
Cổng làng Thành Công nay. |
Thần phả làng còn lưu…
Lật giở cuốn thần phả của làng, ông Nguyễn Văn Thành (74 tuổi, nguyên Trưởng ban Di tích đình Thành Công) say sưa kể: Nghề thủ công phát triển mạnh mẽ ở Kinh thành Thăng Long dưới triều Lý Huệ Tông (1210-1224).
Nhiều người ở các châu về Thăng Long học nghề, mở phố xá buôn bán. Ông Nguyễn Diệu ở châu Ái (Thanh Hóa) cùng vợ là Mai Thị Huyền ra Thăng Long mở một xưởng dệt vải. Họ nhanh chóng nổi tiếng vì giỏi nghề, nhưng tiếc một điều lại bị muộn con.
Năm 39 tuổi, một đêm bà vợ mơ thấy được lên mây gặp các nàng tiên đang quây quần thêu dệt. Thấy bà, họ liền tặng một tấm gấm vuông rất đẹp rồi bay về trời. Bà bừng tỉnh, sau đó liền mang thai. Đến ngày 8 tháng 3 năm Bính Thìn, bà hạ sinh được một cô con gái mặt đẹp như hoa, da trắng như tuyết. Ông Diệu bèn đặt tên là nàng La.
Năm nàng La 18 tuổi nhan sắc khuynh thành, cơ thể toát lên mùi hương thơm ngát, văn tự tinh thông lại giỏi nghề thêu dệt, cắt may. Vải nàng dệt vừa bền vừa đẹp, thao tác lại nhanh gọn nên ai cũng phục tài. Nhiều chàng trai mong ước được kết duyên cùng nàng.
Trong số những người làm công cho ông Diệu lúc ấy có chàng trai Đoàn Thưởng quê ở Hồng Châu (Hải Dương). Cha mẹ mất sớm, Đoàn Thưởng phải gác mộng đèn sách để đi làm thợ dệt kiếm kế sinh nhai. Vốn là một tay thợ dệt lành nghề nên Đoàn Thưởng rất hay thi tài với nàng La. Dần dần hai người cảm mến nhau và ông Diệu cũng bằng lòng nhận Đoàn Thưởng làm con rể.
Biết chồng vẫn ôm mộng văn chương nên nàng La khuyên chồng dùi mài kinh sử để lên kinh ứng thí. Nghe lời nàng, Đoàn Thưởng quyết tâm đèn sách và cuối cùng thi đỗ. Sau khi được bổ nhiệm làm quan coi sóc việc hộ, Đoàn Thưởng liền xin vua cho lập một phường thủ công ven hồ Tây. Còn nàng La nhận việc dạy nghề dệt cho dân chúng. Cách dạy của nàng được nhiều người ủng hộ, tham gia.
Tiếng lành đồn xa, nhà vua nhiều lần mời nàng vào cung dạy cho công chúa và các cung nữ. Được nàng La chỉ dạy, các con vua, con quan ai nấy đều tinh thông văn tự, nữ công gia chánh. Trong lúc đó thì Đoàn Thưởng được thăng chức làm Đốc học ở châu Hoan, châu Ái.
Nghe tin người anh em là Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn muốn khôi phục nhà Lý, chống lại Trần Thủ Độ, Đoàn Thưởng kéo quân về giúp sức. Thuyền đi gặp bão bị đắm, Đoàn Thưởng bị sóng cuốn đi mất tích. Nàng La nghe tin khóc cạn nước mắt. Nàng làm lễ cúng chồng rất lớn. Lễ xong, nàng liền trở về doanh trại, đem toàn bộ vàng bạc, châu báu, tiền của trong doanh trại giao cho dân bản phường để dùng vào việc hương hỏa sau này rồi uống thuốc độc tự tử theo chồng.
Vua hay tin rất thương xót, sai đình thần đến bản phường nơi nàng hóa làm lễ an táng và cho tu sửa doanh trại, cung điện, dựng miếu thờ tự; lại sai người dựng thêm một ngôi đền tại phường trên khoảnh đất hình đầu rồng có ấn triện hai bên tả hữu, có thế đất như chim bay, như hỏa tinh, có dòng chảy bao bọc, hai sông giao nhau. Vua còn cấp cho phường 500 quan tiền để lo việc tế tự và miễn thuế, dịch cho làng.
Cụ Trần Văn Lâm (85 tuổi) người làng Thành Công bảo, trước đây làng Thành Công bốn bề là nước nên để chọn được thế đất làm đình làng phải mất rất nhiều công sức mới lựa được gò đất cao hơn một chút. Đình làng được đặt gần cổng làng cổ trước đây như một hàm ý rằng, Thành hoàng làng luôn che chở, bảo vệ và chăm lo cho cuộc sống ấm no của người làng./.