Nhiều, nhưng năng lực hạn chế
Trong khuôn khổ Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), sáng nay - 19/10, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức Hội thảo công bố báo cáo “Nâng cao năng lực của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam trong giai đoạn mới”.
Báo cáo của CIEM cho biết, nếu như trong giai đoạn 2006 - 2014, mỗi năm có khoảng 70.900 DN thành lập mới, thì trong giai đoạn 2015 - 2020, con số này tăng lên 122.500 DN/năm.
Quy mô vốn sản xuất kinh doanh của DN tư nhân tăng mạnh, từ 6.875 nghìn tỷ đồng năm 2011, lên 24.024,5 nghìn tỷ đồng vào 2019, tăng gấp gần 3,5 lần.
Đặc biệt, trong 5 năm qua, số lượng DN tư nhân lọt vào trong danh sách top 500 DN lớn nhất Việt Nam ngày càng nhiều. Thậm chí, đã có 6 đơn vị lọt vào danh sách những DN lớn của châu Á và thế giới.
Bên cạnh đó, kinh tế tư nhân đóng góp tới 40% GDP, hỗ trợ hàng triệu người lao động có việc làm với mức lương bình quân lên 8,3 triệu đồng/tháng vào năm 2020.
”Điều này cho thấy, khối kinh tế tư nhân ngày càng có vị thế quan trọng trong nền kinh tế”- TS Nguyễn Thị Luyến - Phó Trưởng ban, Ban Nghiên cứu cải cách và phát triển DN (CIEM) nhấn mạnh.
Tuy nhiên, đại diện CIEM cũng lưu ý, năng lực của khu vực kinh tế tư nhân còn nhiều hạn chế. Năng lực cạnh tranh thấp với năng lực nội tại yếu, chậm được cải thiện.
Khu vực kinh tế tư nhân đông về số lượng nhưng chủ yếu quy mô nhỏ, siêu nhỏ, thiếu vắng DN quy mô lớn và vừa; trình độ công nghệ, trình độ quản trị không cao, khả năng liên kết, hợp tác kinh doanh hạn chế, năng lực tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu còn yếu; hiệu quả hoạt động còn thấp và chưa đồng đều.
Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự tương ứng với số lượng, quy mô và chưa phản ánh đúng tiềm năng. Năng lực chống chịu trước “cú sốc” đại dịch COVID-19 còn hạn chế. Tình trạng đóng cửa, tạm ngừng kinh doanh trở nên phổ biến.
Hội thảo công bố báo cáo “Nâng cao năng lực của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam trong giai đoạn mới” |
Vẫn “nhất bên trọng, nhất bên khinh”…
Theo nghiên cứu của CIEM, nguyên nhân chủ yếu được xác định bao gồm cả nguyên nhân nội tại và nguyên nhân từ cơ chế, chính sách của Nhà nước. Thực tế, những yếu kém trong nội tại vừa là hạn chế vừa là nguyên nhân cản trở quá trình nâng cao năng lực của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam.
Bên cạnh đó, vẫn còn những cơ chế, chính sách làm cho DN, hộ kinh doanh “ngại” lớn. Chính sách hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả hoặc chậm thực hiện, DN khó tiếp cận. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao, điều hành thiếu nhất quán, đặc biệt ở địa phương trong giai đoạn dịch COVID-19, môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế, tình trạng phân biệt đối xử vẫn diễn ra.
Theo PGS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, đang có một thực tế là Chính phủ và các địa phương có nhiều chính sách hỗ trợ, ưu đãi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đơn cử như miễn thuế thuê đất, hỗ trợ thuế,... Trong khi đó, các DN tư nhân lại không nhận được đặc quyền này.
“Trong 2 năm đối mặt với đại dịch COVID-19, khối kinh tế tư nhân đã nhận được nhiều chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, cùng các Bộ, ngành, địa phương. Thế nhưng, có rất nhiều chính sách rất mạnh hỗ trợ khối các DN FDI, thì DN tư nhân lại không có…”- chuyên gia này phát biểu.
Ông Thiên lưu ý, các chính sách hỗ trợ cần phải công bằng, không phân biệt DN tư nhân hay DN FDI. “Tôi cho rằng, các chính sách hỗ trợ các DN tư nhân chỉ bằng các DN FDI là đủ, không cần hơn. Chỉ cần có vậy, các DN tư nhân cũng đủ sức phát triển vượt bậc hơn hiện nay rất nhiều”- PGS.TS Trần Đình Thiên bày tỏ quan điểm.
Phát triển doanh nghiệp tư nhân thành tập đoàn lớn
Trong đề xuất giải pháp, CIEM cũng lưu ý, để nâng cao năng lực của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam, trước mắt tập trung vào các giải pháp hỗ trợ DN khôi phục sản xuất, giảm thiểu những tác động tiêu cực của đại dịch, ổn định sản xuất, kinh doanh, đảm bảo đời sống và an toàn cho người lao động; kết nối lao động; đảm bảo điều kiện để “sống chung” với đại dịch; tháo gỡ những khó khăn về dòng tiền; tạo điều kiện cho DN tiếp cận khoản vay mới để khôi phục sản xuất kinh doanh, .
Trong trung và dài hạn, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tận dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0; thúc đẩy DN khu vực tư nhân tham gia sâu vào chuỗi giá trị, tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; tăng cường sự kết nối, liên kết theo chuỗi giá trị giữa DN khu vực tư nhân với DN có vốn đầu tư nước ngoài…
Đặc biệt chú trọng thúc đẩy phát triển DN tư nhân quy mô vừa và lớn, phát triển một số tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế; khuyến khích, hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân xây dựng và phát triển thương hiệu, nâng cao năng lực quản trị, trình độ công nghệ; nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho DN; thực hiện đào tạo, đào tạo lại để người lao động thích ứng với bối cảnh mới; thực hiện chính sách bình đẳng giới, thúc đẩy DN do phụ nữ làm chủ phát triển, trao quyền kinh tế cho nữ giới.
Đối với bản thân các chủ thể khu vực kinh tế tư nhân, để tận dụng được cơ hội cũng như khắc phục những hạn chế, cần chú trọng nâng cao chất lượng, quy mô để đảm đủ lớn về quy mô, đáp ứng yêu cầu chất lượng, xây dựng thương hiệu hàng Việt.
Các DN cần phối hợp với nhau, tập hợp các DN cùng ngành để nâng cao năng lực cạnh tranh, cùng chia sẻ cơ hội, khó khăn; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, thực hiện chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, thích ứng với những bất định như thiên tai, dịch bệnh…