DN trốn bảo hiểm xã hội sắp không còn "đất sống"

Thực trạng doanh nghiệp (“DN”) tìm mọi cách để đóng bảo hiểm xã hội (“BHXH”) cho người lao động (NLĐ) thấp nhất có thể ban đầu chỉ xảy ra với số lượng ít, dần dần “bí quyết” này đã được “chuyển giao” giữa các DN. Có thể nói hiện nay, hầu hết các DN đều kê khai sai, gian lận trong việc đóng BHXH cho NLĐ.


Thực trạng doanh nghiệp (DN) tìm mọi cách để đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) cho người lao động (NLĐ) thấp nhất có thể ban đầu chỉ xảy ra với số lượng ít, dần dần “bí quyết” này đã được “chuyển giao” giữa các DN. Có thể nói hiện nay, hầu hết các DN đều kê khai sai, gian lận trong việc đóng BHXH cho NLĐ. 

UBND TP. HCM vừa chính thức phản ánh và yêu cầu sự can thiệp của Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội (“BLĐTBXH”) về vấn nạn này. Là địa bàn kinh tế trọng điểm lớn nhất nước, doanh thu BHXH hằng năm trên địa bàn thành phố là khá lớn, tuy nhiên con số hằng năm thu được là rất nhỏ so với con số tạm tính theo luật. Bởi bên cạnh việc gian lận như trên, thì có đến 75% DN không đóng BHXH.

NLĐ “tiếp tay”, luật chưa “kín”

Theo qui định thì DN có nghĩa vụ đóng BHXH cho NLĐ dựa trên mức lương trong hợp đồng lao động (“HĐLĐ”). Khi kê khai BHXH thì DN phải đính kèm HĐLĐ. Đề phòng trường hợp DN và NLĐ “bắt tay” nhau nên luật còn qui định thêm mức lương tối thiểu làm căn cứ đóng BHXH.

Thoạt nhìn thì với các qui định trên, DN có vẻ hết cách nhưng thực tế thì DN lại “vùng vẫy” rất thoả mái với qui định này. Theo đó, giữa DN và NLĐ vốn dĩ ở “một phe” đã thoả thuận “chia năm xẻ bảy” HĐLĐ thành các bản phụ lục. Tổng thu nhập của NLĐ vẫn không có gì thay đổi, chỉ có khác là số thu nhập hàng tháng đó không còn nguyên hình, nguyên vẹn mà nó nằm rải rác từ bản hợp đồng này cho đến các bản phụ lục khác.

NLĐ hầu như không hiểu, hoặc cũng có thể hiểu nhưng không quan tâm đến sự “vất vả” này của DN, chỉ quan tâm đến số lương mình thực hưởng là được. Điều này giúp DN dễ dàng “qua mặt” cơ quan BHXH trong khi cơ quan thuế cũng không thể loại bỏ khoản chi phí nằm tại các bản phụ lục hợp đồng này ra khỏi danh mục chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế tại DN.

Như vậy, DN chỉ cần chịu khó tốn một ít giấy, một ít thời gian là có thể tiết kiệm một khoản tương đối. Chênh lệch giữa 19% của 15 triệu và 19% của 3 triệu là không nhỏ. (19% bao gồm 16% BHXH, 2% BHYT và 1% BHTN áp dụng kể từ ngày 1/01/2010). Tương đương với con số “lợi nhuận” của DN không chỉ là con số thất thoát của Nhà nước mà là thiệt hại cho chính bản thân NLĐ, đây là điều mà không phải NLĐ nào cũng nhận ra được.

Họ không hiểu được mục đích, ý nghĩa của khoản tiền mà hàng tháng Nhà nước giữ lại của mình. Họ bực tức, căm ghét khi thấy khoản tiền lương của mình không còn nguyên vẹn. Cho nên, thậm chí nếu biết ông chủ của mình đang tìm cách trốn đóng các khoản BHXH này thì họ cũng “nhiệt liệt” ủng hộ. NLĐ không hiểu được rằng mình là nạn nhân chịu thiệt hại thứ hai trong hành vi này của ông chủ. Luật BHXH đã qui định, tác giả bài viết trích dẫn hai qui định sau đây gửi đến bạn đọc là những ai đang đi làm thuê để bạn đọc hiểu bản chất của BHXH.

“1. Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.”(Khoản 1, Điều 3) và “Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội”(Khoản 1, Điều 5 – Nguyên tắc BHXH, Luật số 71/2006/QH11 Về BHXH).

Tại sao DN vừa qua mặt được cả cơ quan BHXH và cả cơ quan thuế? Rõ ràng nếu có sự “nhịp nhàng” giữa các qui định trong luật BHXH và Luật thuế thì DN cũng hết đường. Thật vậy, tại một cuộc hội thảo tìm giải pháp cho thực trạng này, người đứng đầu cơ quan quyền lực tại TP. Hồ Chí Minh nêu ý kiến “để cho cơ quan thuế thu BHXH”.

Thiết nghĩ ý kiến này hay nhưng khả năng thực hiện không cao bởi khối lượng công việc của cơ quan thuế đã là quá lớn. Thuế quản lý còn chưa xong thì liệu rằng cơ quan này có “kham” nỗi việc quản lý BHXH hay không?

Giải pháp

Theo quan điểm của tác giả bài viết thì nên ghi nhận ý kiến này nhưng thực hiện theo cách khác. Đây là một trong các giải pháp mà người viết đưa ra dưới đây nhằm giải quyết triệt để thực trạng này.

Chênh lệch giữa 19% của 15 triệu và 19% của 3 triệu là không nhỏ. (19% bao gồm 16% BHXH, 2% BHYT và 1% BHTN áp dụng kể từ ngày 01/01/2010). Tương đương với con số “lợi nhuận” của DN không chỉ là con số thất thoát của Nhà nước mà là thiệt hại cho chính bản thân NLĐ, đây là điều mà không phải NLĐ nào cũng nhận ra được.

Một là Bộ LĐTBXH và Bộ Tài chính “ngồi lại” với nhau, ban hành qui định theo đó  đối với các chứng từ liên liên quan đến tiền lương, tiền công, tiền trợ cấp cho người lao động (HĐLĐ và các bản phụ lục) muốn được xem là chứng cứ hợp lệ để chứng minh cho khoản chi phí hợp lý, hợp lệ thì phải được đóng dấu “ĐÃ ĐĂNG KÝ” bởi cơ quan BHXH nơi DN đăng ký.

Đây là giải pháp đánh trực tiếp vào chính DN, buộc DN phải thay đổi hành vi.

Giải pháp này là quan trọng và hạn chế được rất lớn lượng DN gian lận trong BHXH. Tuy nhiên giải pháp này vẫn có thể không triệt để. Có thể DN cân nhắc “lợi ích” giữa một bên là kê khai đóng BHXH và một bên là không được khấu trừ theo chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế. Khi  nào lợi ích của việc việc trốn tránh BHXH là lớn hơn thì khi đó thực trạng này vẫn tiếp diễn.

Hai là Bộ LĐTBXH nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành qui định, theo đó thay vì mọi tài liệu liên quan đến việc thiết lập mối quan hệ lao động giữa NSDLĐ và NLĐ được đại diện có thẩm quyền của hai bên ký kết đúng luật định thì có hiệu lực pháp lý, căn cứ pháp lý thì hiện nay phải thêm qui định rằng các tài liệu đó muốn phát sinh hiệu lực pháp lý, hay nói cách khác là hợp HĐLĐ, các bản phục lục, thoả thuận bằng văn bản giữa NLĐ và NSDLĐ phải được đăng ký tại Cơ quan BHXH địa phương nơi DN hoạt động.

Tác giả cho rằng đây là giải pháp hữu hiệu nhất, khả năng áp dụng cao nhất để giải quyết có thể nói là triệt để nhất hiện tượng trên. Bởi lẽ xưa nay DN muốn thực hiện phương thức tiết kiệm chi phí này được là do có sự “tiếp tay” của NLĐ.

Với qui định này, NLĐ sẽ bị thức tỉnh, quyền và nghĩa vụ của họ sẽ bị đe doạ trước tiên nếu HĐLĐ, các bản phụ lục hợp đồng đó không được cơ quan nhà nước công nhận, không được xem là cơ sở pháp lý một khi xảy ra tranh chấp với người chủ của họ. Hơn ai hết NLĐ sẽ không bao giờ chấp nhận “tiếp tay” cho DN và do vậy DN không thể một mình “đi đêm” được. Luật qui định và họ sẽ yêu cầu người SDLĐ cung cấp cho họ bản HĐLĐ, và các bản phụ lục (nếu có) là bản đã được đăng ký tại BHXH địa phương.

Tuy nhiên, để thực hiện được giải pháp này thì một yêu cầu đặt ra là NLĐ phải có kiến thức nhất định về luật. Theo tôi, những ai đã, đang và sẽ là NLĐ làm thuê rằng khi gặp một vấn đề mà nằm ngoài khả năng hiểu biết của mình, hãy tìm trong danh bạ điện thoại của mình những người có chuyên môn và xin ý kiến, xin sự trợ giúp.

Nếu người được xin ý kiến không chắc chắn thì tôi dám chắc rằng người ấy sẽ tự tìm trong đám bạn của họ một người “giỏi”’ về cùng lĩnh vực. Do vậy, lời tư vấn tốt cuối cùng sẽ đến được với người đang cần nó. Ít ai trách một người hỏi do họ không biết mà chỉ cười người không biết mà cũng không hỏi.

Võ Công Nhị (Chuyên viên tư vấn Công ty Mazars Việt Nam)