35 dự án đang nghiên cứu triển khai
Đánh giá về tiềm năng điện gió ngoài khơi, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương - cho rằng, gió ngoài khơi được đánh giá là nguồn năng lượng tái tạo duy nhất có khả năng chạy phụ tải nền cho hệ thống. Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đường bờ biển trải dài hơn 3.000km với 28 tỉnh, thành ven biển, vì vậy tiềm năng phát triển năng lượng gió tại Việt Nam vô cùng lớn.
Theo báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tính đến hết 31/10/2021, Việt Nam đã có 88 dự án điện gió hòa lưới với tổng công suất đặt khoảng 4,2GW; đối với điện gió ngoài khơi, hiện đã có 35 dự án đang nghiên cứu và triển khai với tổng công suất dự kiến lên đến 60GW. Điều này cho thấy tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam là rất lớn, hoàn toàn bảo đảm đáp ứng nhu cầu điện năng trong tương lai.
Bên cạnh đó, cùng với năng lực và kinh nghiệm xây dựng các công trình ngoài khơi, các công trình biển và hệ thống logistics phụ trợ của ngành dầu khí hiện nay, Việt Nam có thể phát huy tốt nội lực để phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi gắn với chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics trong những năm tới.
Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có thể phát triển thị trường điện gió ngoài khơi với quy mô 5-10GW vào năm 2030, giúp tạo ra tổng giá trị gia tăng hơn 60 tỷ USD cho nền kinh tế. Nhiều tổ chức quốc tế cũng khuyến nghị quy mô tối thiểu để bảo đảm tính hiệu quả về quy mô của ngành điện gió ngoài khơi của Việt Nam tối thiểu khoảng 5GW, ông Hiển nói.
Với đường bờ biển dài hơn 3.200km, Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên điện gió ngoài khơi tốt, với hệ số công suất cao và số giờ tải lớn. Những tiến bộ công nghệ đạt được trong thời gian qua cũng đã tăng cường tính ổn định và dễ đoán định của điện gió ngoài khơi. Với việc đầu tư vào hệ thống truyền tải cũng như điều độ thông minh, điện gió hoàn toàn có thể trở thành nguồn chủ đạo của hệ thống năng lượng Việt Nam trong tương lai, qua đó giảm sự lệ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu.
Tuy nhiên, ông Hiển cho rằng, đến nay, điện gió ngoài khơi vẫn được coi là lĩnh vực mới ở Việt Nam. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa chỉ đạo yêu cầu “xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam” nêu tại Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị của các cấp, các ngành còn chậm.
Địa phương ồ ạt đăng ký
Con số chứng minh sức hút của các dự án điện gió ngoài khơi được ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công Thương công bố, đó là Bộ này đã nhận được đề nghị làm các dự án điện gió ngoài khơi lên tới công suất 129.000MW. Trong khi đó, dự thảo Quy hoạch điện VIII mà Bộ Công Thương đang hoàn thiện dự kiến sẽ phát triển 5.000MW điện gió ngoài khơi vào năm 2030 và nâng lên 40.000MW vào năm 2045.
“Việt Nam được đánh giá là có nhiều tiềm năng điện gió ngoài khơi, vận tốc gió ở độ cao 100m đạt khoảng 9-10m/s và khu vực tiềm năng nhất là miền Nam Trung Bộ. Có lẽ cũng bởi nhìn thấy tiềm năng này mà điện gió ngoài khơi đang nhận được sự quan tâm của nhiều địa phương”, ông An nhận định.
Ông An cho biết, với cam kết đạt mức phát thải ròng zero vào năm 2050, Việt Nam sẽ xây dựng lộ trình chi tiết đối với từng ngành, lĩnh vực để thực hiện cam kết của mình, trong đó có lĩnh vực năng lượng sạch và năng lượng tái tạo. Hiện Bộ đang hoàn thiện dự thảo Quy hoạch điện VIII, trong đó dự kiến đề xuất quy mô các dự án điện gió ngoài khơi đạt khoảng 5.000MW vào 2030 và tăng dần tới quy mô trên 40.000MW vào 2045. Nếu điều kiện kinh tế và kỹ thuật cho phép thì có thể phát triển nhiều hơn nữa.
Theo đánh giá, điện gió ngoài khơi cần phải đóng vai trò quan trọng trong tổng cung năng lượng của Việt Nam thời gian tới. Phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam còn giúp lan tỏa, góp phần tạo ra công ăn việc làm và từng bước hình thành ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ cho lĩnh vực phát triển điện gió tại Việt Nam. Có thể nói đây vừa là cơ hội nhưng cũng vừa là thách thức rất lớn.
Quốc hội và Chính phủ cũng đang xem xét thúc đẩy tiến trình xã hội hóa phát triển lưới điện truyền tải, khuyến khích DN chủ động huy động vốn để đầu tư vào lưới điện truyền tải. Đây được kỳ vọng là giải pháp để tăng tốc đầu tư cho hạ tầng lưới điện truyền tải khu vực ven biển, phục vụ phát triển các dự án điện gió ngoài khơi.
“Mặc dù vậy, còn nhiều vấn đề cần được đặt ra và giải quyết bao gồm việc xây dựng các cơ chế, chính sách, xây dựng cơ sở hạ tầng lưới điện, nâng cao năng lực thi công, xây lắp và phát triển chuỗi cung ứng nội địa. Mục tiêu trên hết vẫn là đáp ứng đủ điện cho nền kinh tế và người dân Việt Nam với chi phí hợp lý”, ông An lưu ý.