Dĩ vãng chưa xa
Đỗ Thị Hiền Hoà
Chuẩn bị kỷ niệm ngày thành lập nước, tôi được phân công đến tìm hiểu và viết bài về một cán bộ cách mạng lão thành. Ngôi nhà của ông có dáng dấp một biệt thự, nằm ngay cạnh đường lớn. Nhà rộng nhưng vắng lặng, chỉ có bà vợ già đi ra đi vào và con béc-giê gầm gừ trong vòng xích. Bộ đi-văng sang trọng như nuốt thỏm thân hình gầy bé của chủ nhân. Trong ánh đèn nê- ông mát dịu, căn phòng như lộng lẫy thêm lên. Sau khi mời tôi một chén trà xanh, ông thong thả kể chuyện quá khứ. Tôi xin chép lại câu chuyện như sau:
Hồi đó Đông Năng là bộ đội quân báo được cử về bên kia sông hoạt động, mục đích để đánh hạ đồn Pha Lai và đồn Lý Cẩm. Nhiệm vụ của anh là bắt nhân mối, làm quen với binh lính để nắm tình hình. Ngày ngày, trong vai người bán thực phẩm, anh chở hàng đến tận đòn Tây. Sau vài chuyến hàng, anh chỉ làm quen sơ sơ với vài tên lĩnh, chưa thể gây được nhân mối. Một hôm, anh đang loay hoay xếp những quả bí xanh vào sọt thì bất ngờ một cô gái chạy đến kéo anh cùng đôi quang sọt vào nhà cô, miệng liến láu: 'Mang vào đây, tôi mua hết chỗ này'. Nhà của cô chính là quán hàng xén ở ngay cạnh đồn. Cô đẩy anh ngồi xuống chiếc ghế gỗ ở gian trong, vứt cho anh chiếc quạt mo và giục: 'Quạt đi cho mát, tôi xếp bí vào bếp đã'. Nhưng cô vừa kéo sọt bí đến giữa khoảng sân con ngăn cách nhà trên và nhà bếp thì có tiếng còi toe toe trong đồn, rồi tiếng chân chạy rầm rập. Cô đổ vội mấy quả bí ra sân, vứt chiếc sọt vào bếp trở lại quán hàng. Rồi lại nghe tiếng cô: 'Ngài mua gì ạ, dao cạo râu, hay xà bông?'. Chẳng có tiếng đáp, một lúc thì yên ắng trở lại. Đông Năng quẩy quang sọt ra về, cảm ơn cô hàng xén đã mua giúp cả chỗ bí còn lại. Ánh mắt cô nhìn anh rất lạ lùng. Từ bữa đó, thỉnh thoảng Đông Năng lại ghé qua quán hàng của cô. Tuy chẳng nói thành lời, nhưng tình cảm cứ dần nồng thắm. Một thời gian sau Đông Năng được gọi về tỉnh đội nhận nhiệm vụ chiến đấu, việc bắt nhân mối ở đó trên giao cho người khác. Hôm chào từ biệt, anh nắm chặt tay cô thì thào: 'Đợi anh nhé' cô gật đầu trong nỗi niềm bâng khuâng.
Một hôm Đông Năng được gọi về tỉnh đội. Đồng chí tỉnh đội trưởng vui vẻ hỏi thăm chuyện gia đình, sức khoẻ và biểu dương chiến công của Đông Năng trong những trận chống càn. Rồi tỉnh đội trưởng bắt đầu nghiêm giọng:
- Lần này tỉnh đội mời đồng chí về đây tất nhiên không phải để bàn chuyện tình cảm riêng tư, mà để bàn nhiệm vụ chiến đấu. Trong cuộc kháng chiến này chúng ta phải hy sinh nhiều thứ quý giá, mà cái quý giá nhất là tính mạng còn người thì bao đồng chí, đồng bào của chúng ta đã phải hy sinh rồi. Còn chuyện tình cảm riêng, nếu hy sinh cho kháng chiến mau thắng lợi, tôi tin rằng đồng chí cũng vui lòng chứ?
Đông Năng đáp cứng cỏi:
- Tôi đi kháng chiến từng ấy năm trời, chả dám tính toán chuyện thiệt hơn, có hy sinh tính mạng tôi cũng không tiếc, nói gì đến tình cảm. Nhưng tôi thật sự không hiểu đồng chí giao nhiệm vụ gì.
- Là thế này. Cấp trên muốn cô Duyên bằng cách nào đó phải mồi chài được tên đồn trưởng đồn Pha Lai. Hai tháng qua cô ấy đã làm được việc này. Bây giờ nó muốn lấy cô ấy làm vợ. Cấp trên chỉ thị cho cô ấy phải chấp nhận. Mục địch là để chúng ta đánh được cái đồn đó, giải phóng vùng này. Nhưng cô ấy chưa thông.
Mặt Đông Năng tái nhợt đi. Hoá ra Duyên cũng là một cơ sở của kháng chiến. Anh nói lắp bắp:
- Cái ấy thì... cấp trên cứ nói với cô ấy, sao lại nói với tôi.
- Tất nhiên rồi. Cấp trên đã giao nhiệm vụ cho cô ấy, nhưng cô ấy chưa thông, mà cứ khóc hoài. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, không phải cứ ra lệnh là làm được. Chúng tôi cho rằng cô Duyên có tình cảm sâu sắc với đồng chí, nên cô ấy muốn giữ mình trong sạch. Nếu được đồng chí động viên và thông cảm thì chắc cô ấy nhận nhiệm vụ thôi.
Mặc dù chưa có lời hẹn ước, nhưng Đông Năng cảm nhận rõ Duyên muốn trao gửi thân phận cho mình. Trước nhiệm vụ này, anh thấy tim mình như vò xé, chân tay muốn rụng rời. Anh cố gắng phân bua:
- Tôi biết nói thế nào để cô ấy hiểu cơ chứ. Có khi cô ấy lại hiểu lầm tôi. Thôi, đồng chí cử người khác đi.
- Người khác mà nói được thì chúng tôi gọi đồng chí về đây làm gì. Việc này là trên khu chỉ thị đấy, đồng chí nên cân nhắc kỹ xem.
- Nhưng tôi phải nói với cô ấy thế nào?
- Thì cứ nói rằng đây là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải hy sinh. Cái cần nhất là đồng chí phải tỏ ra trân trọng cô ấy, và sẵn sàng chờ đón cô ấy khi hoàn thành nhiệm vụ trở về.
Đông Năm thấy đầu óc mụ mẫm hết. Anh biết mở miệng thế nào? Đáng lẽ phải bày tỏ tình cảm của mình thì lại đi khuyên cô ấy vào với giặc, lấy giặc làm chồng. Thật là không sao chịu nổi. Anh không muốn gặp Duyên, mà muốn trở về đơn vị ngay lập tức. Nhưng suy đi nghĩ lại, anh tự biết mình sẽ có lỗi lớn với kháng chiến, nếu không làm việc này. Bởi vì nếu Duyên chịu bán mình cho giặc, thì bao nhiêu đồng chí mình không phải hy sinh. Thế là Đông Năng dằn lòng ở lại gặp Duyên trong một căn nhà tranh tồi tàn ở khu căn cứ.
Nhìn thấy anh, Duyên vội quay mặt đi, chẳng chào cũng chẳng hỏi. Dù đã chủ động sắp sẵn bao nhiêu câu nói trong đầu, nhưng bây giờ nhìn thấy Duyên như vậy, tự nhiên Đông Năng quên sạch. Anh cứ đứng trơ như phỗng. Giá như cô ấy cứ mạnh bạo như cái hồi gặp anh lần đầu. Đằng này cô ta chỉ khóc, làm anh bối rối quá chừng. Phải đến năm phút biến thành ông phỗng, Đông Năng mới lấy lại được tự chủ. Anh nói nhẹ nhàng:
- Gặp tôi sao Duyên lại khóc? Tôi đã làm gì phật ý Duyên sao?
Duyên càng khóc to hơn. Đông Năng bỗng thấy lòng nhẹ nhõm, anh bước lại phía cô, nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh, giọng nói chan chứa ân tình:
- Thôi, em đừng khóc nữa. Nếu tôi có thể chia sẻ điều gì với em, tôi xin sẵn lòng. Em cứ khóc mãi như vậy, ruột gan tôi cũng nẫu hết cả rồi.
Duyên ngẩng lên, với đôi mắt sưng mọng, nhìn anh vừa như yêu thương, vừa như giận dữ. Cô nói trong tiếng nấc:
- Anh... cũng... khuyên em lấy hắn phải không?
Đông Năng lúng túng thật sự:
- Lấy... lấy ai?
Rồi kịp nhớ ra nhiệm vụ của mình, anh trút một hơi thở dài buồn thảm:
- Thôi thì... nhiệm vụ của mình, anh trút một hơi thở dài buồn thảm:
- Thôi thì... nhiệm vụ trên giao em ạ. Anh không dám khuyên em lấy ai, chỉ khuyên em nên hoàn thành nhiệm vụ. Bọn anh đánh nhau với giặc, chẳng may phải hy sinh tính mạng thì cũng chẳng nề hà... Em cứ nghĩ xem.
- Nếu là chết thì em không ngại đâu, đằng này... anh chẳng hiểu gì cả!...
Và Duyên lại ôm mặt nức nở khóc. Đông Năng muốn ôm chặt Duyên vào lòng mà nói rằng: Anh hiểu chứ, anh hiểu em không muốn hiến dâng thân thể mình cho kẻ thù, cho người em không yêu, nhưng đó là nhiệm vụ. Nhưng Đông Năng không dám động vào người Duyên, anh cứ ngồi ngây nhìn cô. Rồi anh muốn đứng lên chạy nhanh ra cửa để thoát khỏi cái cảnh trớ trêu này, nhưng không hiểu sao anh lại cất giọng tha thiết:
- Duyên ơi, tôi về nhá!
Duyên ngẩng lên, gặng hỏi như tiếc nuối:
- Anh không nói gì với em ư?
Lúc này Đông Năng mạnh dạn hơn. Anh nắm lấy tay Duyên, bóp chặt:
- Thì anh đã nói ban nãy rồi thôi! Em cứ nên hoàn thành nhiệm vụ!
Một bàn tay nhỏ của Duyên, nằm trong bàn tay to bè, cứng như thép của Đông Năng, cô để yên bàn tay đó, âu yếm nhìn chàng trai lý tưởng của mình, nói rụt rè như ước hẹn:
- Sau này em... có được gặp lại anh nữa không?
- Mọi người sẽ vui mừng chào đón em hoàn thành nhiệm vụ trở về.
- Em biết là mọi người sẽ chào đón em, nhưng còn anh thì sao?
- Tất nhiên anh cũng sẽ vui mừng được gặp lại em
Duyên nhè nhẹ rút bàn tay mình ra khỏi tay Đông Năng, hỏi lại bằng một giọng lạnh lùng:
- Anh vui phải không?
Đông Năng không hiểu được sự chuyển đổi thái độ đột ngột của Duyên. Anh lại rơi vào trạng thái lúng túng, liều trách móc:
- Sao Duyên lại hỏi anh như vậy nhỉ? Em hoàn thành nhiệm vụ trở về, anh không vui thì sao? Thôi, em tha cho anh, đừng hỏi những câu hỏi như thế. Anh vụng về lắm, không làm em vui đâu!
Duyên vẫn lạnh lùng như vậy:
- Em hiểu anh mà. Thôi, coi như anh đã hoàn thành nhiệm vụ, anh về đi.
- Anh muốn nói với em là... sau này nếu em bằng lòng, chúng mình sẽ ở cùng nhau.
- Được rồi, anh cứ về đi. Em cũng mong có cái ngày ấy!
Đông Năng ra về, cũng không hiểu mình có làm tròn nhiệm vụ hay không.
* *
*
Duyên trở thành vợ của tên đồn trưởng Pha Lai một cách nhanh chóng. Tên này say mê Duyên từ mấy tháng trước rồi. Lúc ấy Duyên nhận nhiệm vụ giác ngộ và lôi kéo hắn. Nhưng hắn là một tên quá tỉnh táo và cũng quá khôn ngoan. Hắn không ngả về kháng chiến và nhất định muốn lấy Duyên làm vợ. Vì muốn cài được một nội ứng trong đồn, nên cấp trên quyết định để Duyên nhận lời làm vợ hắn. Tên này đã có vợ ở quê mãi trong Ninh Bình, còn ở đây, hắn gây nhiều nợ máu với dân và ngoan cố, nên Duyên được giao nhiệm vụ, sau khi thành vợ hắn thì phải tìm cách giết hắn, rồi mở cổng đồn cho quân ta tiến vào. Sau cuộc gặp gỡ với Đông Năng để chấm dứt mối tình thầm kín và lãng mạn, Duyên vui vẻ nhận lời làm vợ tên đồn trưởng khét tiếng gian ác này.
Ba tháng sau Duyên có thai. Hôm ấy, nhận được lệnh từ bên ngoài, phải xoá sổ cái đồn ấy và giết tên đồn trưởng ngay trong đêm. Duyên tự tay mở cổng đồn cho du kích và bộ đội ta xông vào, nhưng cô không giết tên đồn trưởng mà đã đánh thức hắn dậy để hắn kịp chạy thoát. Khi các chiến sĩ Việt Minh hiểu được sự việc thì tên đồn trưởng đã thoát thân từ lâu.Họ nhìn Duyên vẻ oán trách, rồi họ đi tìm người chỉ huy đến. Chỉ huy trận này chẳng phải ai khác mà chính là Đông Năng. Anh đề nghị tỉnh đội cho anh đánh đồn này, cũng là để trực tiếp cứu Duyên ra khỏi vòng tay của tên đồn trưởng gian ác, đồng thời anh cũng muốn tự tay mình trừng trị hắn. Khi Đông Năng đến thì Duyên thôi không khóc nữa. Trước sau cô chỉ nói với anh mỗi một câu:
- Tôi đã tự ý thả cho tên đồn trưởng thoát vì người ấy là chồng tôi, là bố của con tôi, tôi xin chịu trách nhiệm với cấp trên. Bây giờ chiếm được đồn rồi, anh cứ coi tôi như một tù binh ở đây, muốn xử trí thế nào thì cứ việc.
Đông Năng những muốn mắng cho Duyên mấy câu, đồng thời lại muốn an ủi cô. Nhìn căn phòng ngủ của tên đồn trưởng, mọi đồ dùng đều sang trọng, nhất là đống chăn gối còn nguyên dấu người nằm, Đông Năng cảm thấy bực dọc một cách khó tả. Mãi sau anh mới nói được mấy câu, chẳng ra mắng, cũng chẳng ra an ủi:
- Cô đã tự ý thả hắn ra. Hắn đã thoát rồi, chắc chắn sẽ gây ra nhiều tội ác ở nơi khác. Điều ấy cô biết quá còn gì. Nhưng thôi, dù sao cái đồn này bộ đội cũng đã làm chủ. Bây giờ cô muốn tự coi mình là gì, tuỳ ý. Mà thực ra cô vẫn do cấp trên phụ trách, chúng tôi chỉ biết làm nhiệm vụ của mình.
Nói xong anh cho mọi người phân tán, thu dọn chiến trường, bỏ mặc Duyên ngồi lại một mình trong căn phòng ngủ sang trọng, trên cái giường còn bộn bề chăn gối.
Đồn Pha Lai được san bằng, cả một vùng rộng lớn được giải phóng, nhưng chiến tranh chưa kết thúc. Đông Năng báo cáo việc của Duyên với cấp trên, đồng chí tỉnh đội trưởng có ý phê bình anh:
- Đồng chí Duyên đã rơi vào một tình thế khó xử, đáng lẽ đồng chí phải khéo léo động viên cô ấy. Thôi, đã vậy cứ để Duyên ở lại đó một thời gian, đừng làm cô ấy tủi thân. Nhổ được cái đồn ấy, giải phóng được đến năm xã, mừng lắm rồi. Còn tên đồn trưởng ta sẽ bắt sau.
Rồi tỉnh đội trưởng không may bị hy sinh khi trực tiếp chỉ huy một trận đánh lớn phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ. Đông Năng tiếp tục chiến đấu, được thăng chức từ đại đội trưởng lên tiểu đoàn trưởng rồi tỉnh đội phó. Khi hòa bình anh chuyển ngành, được sang Liên Xô học tập rồi trở thành lãnh đạo cao cấp của tỉnh. Còn Duyên trở về ngôi hàng xén cũ, sinh con một mình. Khỏi phải nói, vợ con một tên đồn trưởng gian ác sống cùng với những người công khai tham gia kháng chiến thì bị coi khinh, đôi khi bị thù ghét thế nào. Duyên lẳng lặng chịu đựng để nuôi con nên người, dù đó là con tên đồn trưởng. Hòa bình, Duyên cũng không thể khai báo với tổ chức, vì người trực tiếp giao nhiệm vụ cho cô đã hy sinh rồi. Người biết rõ sự việc là Đông Năng thì cô không muốn làm phiền. Những năm ấy mọi người đều cần có một lý lịch trong sạch, nhất là những người đang giữ chức vụ quan trọng, bởi vậy dù từ tỉnh về Pha Lai chẳng bao xa, nhưng Đông Năng không về thăm Duyên. Ngay cả khi Nhà nước quyết định lấy thị trấn ấy để xây nhà máy điện, phải di dời toàn bộ dân đi chỗ khác, Đông Năng trực tiếp về thị trấn động viên bà con, nhưng cũng không đến thăm Duyên. Mãi đến khi cầm quyết định nghỉ hưu ông mới kết hợp một chuyến thăm thú đó đây trong tỉnh, thăm lại người tình năm xưa. Ngày ấy bà Duyên ốm và yếu lắm. Biết ông đến chơi, bà quay mặt vào tường, nhất định không nhìn mặt ông. Chuyến thăm ấy chỉ làm ông thêm buồn chán. Vài năm sau bà Duyên mất. Một hôm ông đang nằm đung đưa trên chiếc võng dù dưới gốc cây xoài trong vườn nhà, thì có người chuyển cho ông một bì thư nhỏ. Anh ta nói mình là cháu của bà Duyên rồi vội vàng đi ngay. Mở gói ra ông thấy toàn thư của tên đồn trưởng gửi cho vợ, bực mình ông định quẳng đi, nhưng rỗi rãi, với lại người ta chuyển cho mình chắc có ý gì, nên ông thử đọc một lá, rồi đọc hết. Những bức thư ấy được viết từ nước Mỹ, vào năm 1976. Lá thứ nhất hắn kể nỗi nhớ nhung khi sống ở miền
Nghe đến đây tôi không sao kìm được, liền đặt một câu hỏi có vẻ trách cứ hộ người đã khuất:
- Sao chừng ấy năm ông Đông Năng này không về thăm bà ấy lấy một lần? Cũng không hỏi thăm tin tức?
- Cô không hiểu. Một vị lãnh đạo cấp cao của tỉnh mà lại về thăm vợ tên ngụy binh, ngay gian thế nào, ai là người chứng minh cho, nếu những người không thiện chí họ đặt vấn đề sai lệch đi thì rắc rối vô cùng.
Nghĩ đến nhiệm vụ của mình, tôi nói:
- Bác ơi, cháu muốn viết về những trận chiến đấu hào hùng cơ ạ, đây là câu chuyện tình cảm riêng, ông Đông Năng lại từng là cán bộ cao cấp của tỉnh, e rằng...
- Cô cứ viết như thế. Không có những hy sinh thầm lặng, không có những trái tim rớm máu, thì có lẽ cũng không thể có chiến công hào hùng. Còn chuyện nhân vật Đông Năng thì không ngại, vì người đó chính là tôi.
Nói xong ông trút một hơi thở thật dài. Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng không dám hỏi gì mà ngồi lặng thinh nhìn ông như muốn xác dịnh tính chân thực của câu chuyện. Ông nói tiếp với một giọng trầm buồn:
-Bây giờ thì tôi hiểu đó là sai lầm lớn nhất của đời tôi. Sau khi đọc những lá thư ấy, tôi thấy lương tâm mình day dứt lắm, càng già, càng day dứt hơn. Mới đây tôi có trở lại Pha Lai, tìm gặp con cháu bà ấy. Cô con gái nay ngoài năm mươi tuổi, vồn vã tiếp tôi. Cô cho biết, cha cô đã mất ở Mỹ từ năm một chín tám mươi, chỉ có mấy lá thư ấy, chứ chẳng gửi cho mẹ con cô chút của nả gì. Rồi cô ta cứ nhận lỗi mãi về việc con trai cô ta đã chuyển những thư ấy cho tôi. Đó không phải ý nguyện của bà, mà do đứa cháu ngoại dọn lại căn phòng sau khi bà mất, đã tò mò đọc những bức thư, rồi tự làm theo ý nó. Mặc dù cô ta cứ nhận lỗi hoài, nhưng tôi rất cảm ơn cậu cháu trai, nếu không, làm sao tôi biết được bà ấy thương tôi nhiều đến thế, đến nỗi người chồng ở dưới suối vàng chạy sang đến Mỹ vẫn còn ghen. Tôi kể lại chuyện này, xin coi như một bó nhang và lời tạ tội, cầu khẩn bà Duyên sống khôn thác thiêng, hãy tha thứ cho tôi.
Vâng, tôi viết đúng như lời ông kể, mong rằng bà Duyên ở dưới suối vàng hãy chấp nhận lời cầu khẩn của ông.