Đi bẫy chim trời

Nguyễn Vũ

Nhìn trời hửng dần, Nam lắc đầu uể oải: "Dạo này khó bắt lắm. Trời mù sương, bẫy cuối nguồn, lại thêm gió bắc...". Bỏ dở câu, anh bất chợt hào hứng: "Kìa, kia rồi! Có một con! Ngồi im nhé!". Rồi, anh tung chim mồi, ngồi thụp ngay vào lều, nghến mắt nhìn lên. Con chim mồi sổ lồng, cộng với đà tung, bay vút lên, liệng một vòng điệu nghệ, rồi chao nghiêng sát cánh đồng đang kỳ lúa đỏ đuôi. Một vòng, hai vòng!

Ra đồng bẫy chim

Ở Thuỷ Nguyên, Nam chưa phải hàng "sát chim". Nhưng về thâm niên, anh tự hào là một trong những người "tiên phong" bẫy chim trời. Nam bảo, những năm 87-88 là "thời hoàng kim" của nghề. Giờ coi là "nghề", vì người ta đi bẫy đều mỗi ngày, có đầu tư, tính toán hoàn vốn, lãi ròng. Còn hồi đó chỉ là bẫy cho vui, tiện thì bán lấy tiền trang trải thêm, thậm chí đơn giản là "kiếm cái gì cải thiện". Có đêm, Nam bắt được hàng trăm con, kỷ lục nhất là lần được 184 con, chưa tính loại làng nhàng như cò bợ, cò lửa...

Nam bảo, bấy giờ chủ yếu bắt bằng chim mồi, bằng câu nhử, hoặc đặt bẫy. Còn nay, người ta làm ăn chuyên nghiệp lắm, đầu tư hàng cân lưới, giăng mắc khắp đồng trên xóm dưới, mỗi nhà một ruộng, một khoảnh. Lưới căng ngang hoặc treo dọc đường đi, đủ cả. Trừ chim bay cao, còn đã sà xuống ruộng, khi bay lên, dù chéo, xiên thế nào cũng vướng lưới. Cả đàn, hoạ hoằn một hai con giẫy được. Vào lưới là chuông reo! Hễ thấy tiếng chuông, dân bẫy chim lập tức lao ra gỡ!

 

"Thiên la địa võng" lưới

 

4-5 giờ sáng. Khắp cánh đồng Thuỷ Nguyên, lưới trắng như tơ. Bẫy chim trúng nhất khoảng đầu tháng 7 đến giữa tháng 9 âm lịch, theo mùa lúa chín. Hết lúa, vụ chim coi như kết thúc. Rộ nhất từ tháng 8 đến giữa tháng 9, chim di cư từ phương Bắc về tránh đông, bị hút bởi những cánh đồng vàng. Tất nhiên, không chỉ Thuỷ Nguyên có lúa. Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, An Lão, Kiến Thuỵ cũng bát ngát đồng vàng. Nhưng giống chim, thích bay theo nguồn nước. Kiến Thuỵ, An Lão có sông Văn Úc chảy qua. Thuỷ Nguyên có cửa sông Cấm, sông Bạch Đằng. Nhưng xét về địa hình, Thuỷ Nguyên mới là cửa ngõ phía Bắc thành phố. Và chim di cư từ phương Bắc, mới tới Thuỷ Nguyên, đã bị "vợt" kha khá! Ấy là theo lý giải của Nam, về "phong trào" bắt chim rầm rộ quê anh.

Nói “phong trào” không quá. Cả huyện có 37 xã, nhẩm đếm số xã có người bẫy chim cũng hết hai bàn tay. Từ Hoa Động, Hoàng Động, Dương Quan, Tân Dương, Trấn Dương, đến Lập Lễ, Phả Lễ, Lưu Kiếm, Hoà Bình, Lâm Động, đâu cũng râm ran chuyện đánh chim. Đến nỗi, sáng ra, ở chợ Hữu Quan (xã Dương Quan), người đi bẫy ăn quà, hỏi vắn tắt: "Đêm qua được bao nhiêu?". "Ít! Hơn chục!". Ước tính, số người đi đánh chim hàng đêm chừng bốn chục, số làm ăn "bập bõm" kiểu tài tử thêm khoảng hai chục nữa.  

Dân đánh chim thời nay dùng lưới, tính bằng cân. Trung bình một kg lưới căng được 150m chiều dài. Chuyên nghiệp như nhà ông Bồi, đầu tư 7-8 kg lưới. Với giá 150.000 đồng/kg, số vốn ông bỏ ra chừng hơn 1 triệu đồng. Ít hơn như nhà Cường, Phược, chừng 1-3kg lưới. Đó là lưới dùng bắt cò, sâm cầm, tìa hia, gà đồng… Còn lưới bắt chim ngói tốn ít hơn, cả lưới, tơ chỉ chừng 120.000 đồng là yên tâm hành nghề.

Do đánh lưới, Thuỷ Nguyên thành địa chỉ cung cấp chim hàng đầu cho các nhà hàng, khách sạn và nhiều chợ trong nội thành. Nhìn sổ thu mua của chị Phích, thấy danh sách chị Liễu, anh Còi, chị Thách, anh Cường, ông Bồi, anh Sô, ông Bảo…, mỗi người không dưới hai chục con/ngày. Sơ sơ, mỗi ngày Thuỷ Nguyên cung cấp không dưới 700 con chim. Đánh bắt hàng loạt như thế, nên vài năm gần đây, lượng chim ít hẳn.

 

Bẫy chim thời hiện đại

 

Đêm buông. Ngả lưng xuống chõng, anh Phược với tay bật đài. Những tiếng "cuốc! cuốc!" đều đặn văng lên. Thì ra tiếng "cuốc! cuốc!" dậy khắp đồng đất Thuỷ Nguyên phát ra từ những chiếc đài nối âm-ly, chứ không phải từ người đi dò cuốc và cất tiếng gọi như xưa. Cũng đủ "món": tiếng cuốc tìm bạn mong mỏi, thưa vắng; tiếng cuốc chiến khẩn thiết, gấp gáp... 12 giờ đêm, gió mát, đồng vắng, tiếng anh Phược ngáy quên trời đất càng khiến chúng tôi buồn nản vì chờ đợi, không cưỡng được cơn buồn ngủ. Đang ngủ ngon lành tưởng "súng bắn bên tai chẳng tỉnh", bỗng anh Phược bật dậy: rất khẽ trong gió, những mảnh đồ hộp treo đầu cọc căng lưới reo leng reng. Anh Phược lập tức quơ đèn, bao lưới,  ra đồng gỡ chim. Được hơn chục cuốc, cò! Rồi cũng khá nhanh, anh quay vào, ngả lưng, ngủ tiếp. Giấc ngủ của người bẫy chim như được đặt sẵn chuông báo thức vậy! Thức đêm hàng tháng đánh chim không đơn giản. Hẳn thế nên đồng nào cũng có căn chòi nhỏ, kê chõng tre, chăn màn đầy đủ, cho người đánh chim ngả lưng.

Ấy là bẫy chim đêm. Còn giống chim ngói béo mầm khi vụ lúa chín lại có thói quen  ăn theo đàn tầm sáng sớm. Chòi của người bẫy chim ngói đơn giản, lợp lá cọ, đan thưa mắt cáo, khum khum vừa đủ một người ngồi khom lưng và chẳng có "trang thiết bị" gì cả. Chúng tôi ngồi ở chòi anh Nam vào một sáng mù trời. Nhìn trời hưng hửng, anh lắc đầu uể oải: "Mấy hôm nay khó bẫy lắm. Trời mù sương, bẫy cuối nguồn nước, lại thêm gió bắc...". Bỏ dở câu, bất chợt anh hào hứng hẳn: "Kìa, kia rồi! Có một con! Ngồi im nhé!". Rồi, anh tung chim mồi và ngồi thụp ngay vào lều, nghến mắt nhìn lên. Con chim mồi sổ lồng, cộng với đà tung, bay vút lên, liệng một vòng điệu nghệ, rồi chao nghiêng sát cánh đồng đang kỳ lúa đỏ đuôi. Một vòng, hai vòng! Con chim trời chao cánh sát chim mồi, rồi chợt vút đi. "Hỏng, nó nhìn thấy màu áo của em rồi!" - Anh Nam lắc đầu và giải thích thêm: “Giống này tinh lắm. Cả đàn bay qua, thấy chim mồi bay lên, nó chưa sà xuống ngay, mà chờ chim đầu đàn kiểm tra. Không thấy bóng người, con này hạ cánh, cả đàn mới sầm sập lao theo. Vì thế, chòi canh chim ngói phải làm thưa mắt cáo, nguỵ trang như bóng cây chỉ để người bẫy núp. Chim hạ xuống, cả bẫy lưới ngả sau chòi giật ngược. Lúc ấy, người bẫy phải “vắt chân lên cổ” chạy gỡ chim. Bẫy chim ngói “trúng” nhất khi ngồi chòi, thấy gió tây thổi mát sau gáy.

Nam là tay bẫy chim khá thiện nghệ. Anh kể, hơn chục năm trước thường bẫy đêm,  bắt gà đồng, cuốc, cò. Nhưng hồi đó, chủ yếu dùng bẫy. Chọn ruộng nước, đắp ụ đất cao bằng mặt nước, móc con châu chấu hay con cá, con tôm vào lưỡi câu nối với sợi dây, buộc vào cọc, chôn sâu trong ruộng lúa. Cò cứ thế mà đến. Làm thế được cò to, nhưng phải di chuyển bẫy luôn, song không đem bán được. Giống cò phàm ăn, thường nuốt mồi xuống  dạ dày, bị lưỡi câu xé ruột chết. Giờ anh chuyên bẫy chim ngói, vì đỡ thức đêm. Chim ngói chỉ ăn thóc từ khi trời hưng hửng màu da, đến lúc có những tia sáng mặt trời đầu tiên chiếu xuống cánh đồng, khoảng 7 giờ sáng là về. Nhìn tôi định vuốt ve chim mồi, anh ngăn lại: “Đừng! Nó bay loạn lên đấy”. Rồi anh giải thích: “Con này hôm nọ khâu mắt hơi sâu, chảy ít máu, nhát lắm”. Chim ngói mồi đều phải khâu mắt. Nam nói, nếu để mở mắt, tung lên, chúng chỉ báo hiệu cho đàn tránh đi thôi. Chim mồi dùng một năm là thay vì chim mồi nuôi thường béo nhanh, bay không nổi.

 

Vắng dần "bóng chim tăm cá"

 

Tôi tỏ ý lo lắng: "Đánh bằng lưới, chẳng mấy hết chim", anh Cường cười hài hước: “Đến mùa là chúng về, hết thế nào được! Xem con người đấy, có mấy chục năm mà dân số tăng vù vù, phải kế hoạch nữa là!”. Lý luận mà chủ nhân tự thấy “khôi hài, dí dỏm” có vẻ không hợp điệu. Bởi, theo anh Nam, so với thời điểm cách đây gần hai chục năm, số chim đánh bắt được giảm đáng kể. Giờ, nhiều nhà thức cả đêm chỉ được 1-2 gà đồng, vài con dẽ, còn lại cò bợ. Chim ngói là giống về theo mùa lúa chín, nhưng liền mấy sáng, anh Nam đều về không. Một hai chục con đem bán, chỉ được một hai chục nghìn đồng. Giá thu mua “mạt” lắm: 8-10 nghìn đồng/gà đồng, 2-3 nghìn đồng/cò, 12 nghìn đồng/ngói, 7-10 nghìn đồng/cuốc, 25 nghìn đồng/bìm bịp, trả tiền theo tháng. Nhưng ngói, bìm bịp, gà đồng không đều, có cũng chỉ vài con, còn phần nhiều là cò lửa, cò bợ, cuốc… Ít chim, người ta càng cố đánh để hoàn vốn, có lãi. Càng cố, càng ít đi... 

Trên đường về thành phố, qua cầu Lạc Long, chúng tôi được mấy người bán chim chào mời. Từ Thuỷ Nguyên về nội thành, thêm vài km mà giá chim đội lên 2-3 lần. Vào trung tâm, giá còn đắt hơn, bởi nhiều người vẫn sính món chim trời, khoẻ bay, thích thóc lúa, thịt chắc hơn giống nuôi sẵn. Cầu Lạc Long và nhiều điểm khác trong nội thành bỗng thành "chợ chim" xôm tụ. Người ta không chỉ chào mời đon đả, mà còn sẵn sàng vặt lông chim tại chỗ phục vụ "thượng đế". Vì thế, dẫu bắt chim ngày một khó khăn, nhưng người thu gom  không giảm. Vả lại, đã người đánh chim nào bị nhắc nhở về chuyện huỷ diệt môi sinh đâu! Nghe nói, lại mới thêm ông Quyền (Kiến Thuỵ) sang tận Thuỷ Nguyên đặt hàng. Có cầu ắt có cung. Người đánh chim ngày càng nghĩ ra nhiều kiểu đánh bắt tận diệt. "Còn đâu “bóng chim tăm cá”? Nghe tôi băn khoăn, mấy tay bẫy chim Thuỷ Nguyên cười khơ khơ: "Mạn Cát Hải đánh chim quanh năm, có hết đâu!". "Chim di cư có thể chứa mầm dịch đấy. Chị không sợ H5N1 sao?" - tôi hỏi. "Dào ôi, tôi buôn chim mười mấy năm nay, có sao đâu! Mấy ông nhà báo chỉ giỏi doạ! - chị Phích cười khì, rồi chợt thì thào - Mà này, đừng nói chuyện H5N1 lên báo nhé, kẻo chị khó làm ăn".

Chiều tà, người bán chim về hết. Những chiếc lông chim trời còn vương bừa dưới mặt cầu Lạc Long, nhẹ cuốn bay theo đà xe chạy.…/.