Nhiều hệ lụy khi chưa có Luật
Theo Bộ Y tế, hiện tại việc thu thập số liệu về số lượng, tỷ lệ người chuyển giới tại Việt Nam còn gặp khó khăn do sự kỳ thị xã hội, khả năng tiếp cận tới những người chuyển giới ở vùng sâu, vùng xa cũng như hiểu biết, nhận dạng của chính người chuyển giới. Nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ người chuyển giới là từ 0.3% đến 0.5% dân số. Nếu sử dụng con số trung bình thấp là 0.3%, Việt Nam ước đoán có gần 295.457 người chuyển giới (tính đến ngày 25/11/2021, dân số Việt Nam là 98.485.682 người) , lấy con số trung bình là 0.5% thì Việt Nam ước tính có khoảng 480.000 người chuyển giới.
Mặc dù quyền được chuyển đổi giới tính đã được ghi nhận tại Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có văn bản luật chuyên ngành quy định chi tiết về vấn đề này. Người chuyển giới tại Việt Nam vẫn phải đi nước ngoài để thực hiện các can thiệp y học để chuyển đổi giới tính hoặc thực hiện chuyển đổi giới tính tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bất hợp pháp tại Việt Nam, từ đó gây ra nhiều hệ lụy về vấn đề sức khỏe, tính mạng của người chuyển giới, gánh nặng cho nhà nước và xã hội.
Theo đó, người chuyển giới đang sử dụng các loại thuốc hooc-môn trôi nổi ngoài thị trường, không rõ nguồn gốc xuất xứ trên internet hoặc từ nhiều nguồn khác nhau với giá cả và chất lượng không thể kiểm chứng. Người chuyển giới tại Việt Nam không được chuẩn bị về mặt tâm lý, các bài trắc nghiệm về tinh thần khi chuyển đổi giới tính: ăn mặc như giới tính mong muốn 24/24 giờ; tập luyện những thay đổi khi giao tiếp/xưng hô với những người xung quanh.... người chuyển giới không được đối xử một cách bình đẳng khi thực hiện quyền công dân của mình. Người chuyển đổi giới tính không được sống đúng với giới tính mà mình mong muốn. Đa số họ bị phân biệt, kỳ thị nên khó khăn trong học tập, lao động, việc làm. Một số người do khao khát có giới tính khác với giới tính sinh học hoàn thiện nên đã bị mắc bệnh “Phiền muộn giới”, thậm chí có những người quá bức bối, đau khổ đã tự tử để tìm sự giải thoát.
7 chính sách lớn
Bộ Y tế cho biết, dự kiến phạm vi điều chỉnh của Luật Chuyển đổi giới tính quy định về quyền và nghĩa vụ của người chuyển đổi giới tính; điều kiện, hồ sơ, thủ tục đối với người đề nghị can thiệp y học để chuyển đổi giới tính; điều kiện, hồ sơ, thủ tục đối với tổ chức, cá nhân thực hiện xác định tâm lý, can thiệp y học để chuyển đổi giới tính; công nhận là người chuyển đổi giới tính để thay đổi giấy tờ hộ tịch.
Về đối tượng điều chỉnh, dự kiến Dự án Luật Chuyển đổi giới tính sẽ điều chỉnh đối với cá nhân có yêu cầu chuyển đổi giới tính, người chuyển đổi giới tính, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới tính; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc chuyển đổi giới tính (bao gồm cả cơ quan quản lý nhà nước).
Dự thảo Luật đưa ra 7 chính sách lớn gồm: Chính sách 1: Các trường hợp công nhận là người chuyển đổi giới tính nhằm tôn trọng quyền tự quyết, tạo điều kiện cho cá nhân đề nghị chuyển đổi giới tính được sống đúng với giới tính mà mình mong muốn.
Chính sách 2: Quy định về độ tuổi được thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới tính với mục tiêu bảo đảm người có mong muốn chuyển đổi giới tính hoàn toàn tự nguyện, nhận thức được đầy đủ, toàn diện hành vi của mình và hậu quả có thể xảy ra, từ đó quyết định có thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới tính hay không và thực hiện quyền chuyển đổi giới tính một cách tự nguyện.
Chính sách 3: Quy định về tình trạng hôn nhân trước khi thực hiện can thiệp y học về chuyển đổi giới tính với bảo đảm việc thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới tính của người đề nghị không làm ảnh hưởng, xáo trộn đến các quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp đến họ như quan hệ vợ, chồng, quan hệ cha, mẹ, con và tránh làm xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật có liên quan.
Chính sách 4: Xác định tâm lý người chuyển đổi giới tính bảo đảm quy định đưa ra phù hợp với đặc điểm kinh tế, tình hình xã hội của Việt Nam và giúp cho người có mong muốn chuyển đổi giới tính có thời gian chuẩn bị về tâm lý (không hoặc giảm bị stress hoặc có suy nghĩ tiêu cực) khi cơ thể chuyển từ giới tính này sang giới tính khác, thái độ chấp nhận giới tính mới của gia đình và những người xung quanh…
Chính sách 5: Điều kiện đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới tính. Mục tiêu của chính sách bảo đảm các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới tính phải có năng lực về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực y tế để thực hiện; bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng cho người thực hiện.
Chính sách 6: Quy định công nhận đối với các trường hợp đã thực hiện phẫu thuật ngực, bộ phận sinh dục hoặc phẫu thuật cả ngực và bộ phận sinh dục để chuyển đổi giới tính trước ngày Luật Chuyển đổi giới tính có hiệu lực. Chính sách này là một trong những trường hợp công nhận là người chuyển đổi giới tính.
Chính sách 7: Chi trả chi phí thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới tính bảo đảm phù hợp, thống nhất với chính sách bảo hiểm y tế của Nhà nước và thực trạng nguồn ngân sách của Nhà nước hiện nay./.