Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định về biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.
Về mặt hàng khô dầu đậu tương, Bộ Tài chính cho biết, Bộ NN&PTNT, Bộ Công an và một số Hiệp hội đã kiến nghị điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN (thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ưu đãi) của mặt hàng này từ 2% xuống 0%.
Theo Bộ Tài chính, mặt hàng khô dầu đậu tương là sản phẩm từ quá trình ép dầu hạt đậu tương. Mặt hàng này là một trong những nguyên liệu quan trọng để sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Số liệu thống kê cho thấy, tổng nhu cầu thức ăn (ngô, khô đậu tương, cám, bột cá...) cho toàn ngành chăn nuôi Việt Nam khoảng 33 triệu tấn/năm. Hiện nay, nước ta đã có nhà máy sản xuất được khô dầu đậu tương. Tuy nhiên, sản lượng trong nước chỉ đạt khoảng 13 triệu tấn/năm, tương đương với 35% nhu cầu. Phần còn lại phải phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.
Bộ Tài chính cho biết, hiện nay, cơ bản mức thuế suất MFN các mặt hàng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi đều đã ở mức rất thấp, để bảo hộ sản xuất trong nước phù hợp với khả năng đáp ứng thị trường trong nước.
Đối với mặt hàng khô đậu tương, đã sản xuất được 35% nhu cầu trong nước và nhập khẩu 65% nên mức thuế suất MFN đối với mặt hàng này là 2% (so với mức cam kết trần WTO 5%) như hiện hành là phù hợp, đảm bảo nguyên tắc ban hành Biểu thuế, thuế suất, khuyến khích ngành chăn nuôi chủ động nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người chăn nuôi và các nhà cung cấp thức ăn chăn nuôi trong nước và nhập khẩu.
Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất 2 phương án như sau:
Phương án 1 giữ nguyên mức thuế suất MFN đối với mặt hàng khô dầu đậu tương như hiện hành.
Phương án 2, điều chỉnh mức thuế suất MFN đối với mặt hàng khô dầu đậu tương từ 2% xuống 1%, thay cho phương án giảm xuống 0% như đề xuất của Bộ NN&PTNT và một số hiệp hội.
Theo Bộ Tài chính, nếu thực hiện theo phương án 1 sẽ góp phần ổn định chính sách, không xáo trộn hoạt động sản xuất của doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi và doanh nghiệp chăn nuôi trong nước. Do trong nước đã sản xuất được 35% nhu cầu nội địa trên mức thuế suất MFN 2% (so với mức trần WTO 5%) là hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tiếp tục sản xuất. Tuy nhiên, phương án này có nhược điểm là chưa đáp ứng được kiến nghị của một số Bộ, Hiệp hội và doanh nghiệp trong bối cảnh giá nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng cao.
Đối với phương án 2, theo Bộ Tài chính phương án này sẽ tạo điều kiện cho ngành sản xuất khô dầu đậu tương trong nước, nâng cao năng lực cạnh tranh mà trong khi đó vẫn góp phần giảm chi phí nguyên liệu đầu vào cho ngành chăn nuôi và doanh nghiệp cũng có thể chủ động hơn về nguồn cung.
Việc giảm mức thuế suất MFN xuống 1% thay vì 0% vẫn tạo dư địa đàm phám cho các FTA Việt Nam sẽ ký kết trong tương lai, đảm bảo phù hợp với các nguyên tắc về ban hành Biểu thuế, thuế suất quy định tại Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Cơ quan này cũng cho hay, việc giảm mức thuế suất theo phương án này sẽ làm giảm số thu NSNN khoảng 52 tỷ đồng/năm (bao gồm thuế nhập khẩu và thuế GTGT), thấp hơn so với mức giảm số thu NSNN 1.040 tỷ đồng/năm.