Đề nghị miễn thuế đối với hoạt động khai thác thủy sản xa bờ

Sáng ngày 21-10, Quốc hội thảo luận ở tổ về dự án Luật Thuế tài nguyên. Đoàn ĐBQH thành phố Đà Nẵng tham gia thảo luận cùng với các Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh, Hòa Bình, Lào Cai, Quảng Ninh.Các đại biểu Quốc hội đã tập trung cho ý kiến những vấn đề quan trọng của dự án luật như đối tượng chịu thuế; căn cứ tính thuế; thuế suất và việc miễn, giảm thuế.

Sáng ngày 21-10, Quốc hội thảo luận ở tổ về dự án Luật Thuế tài nguyên. Đoàn ĐBQH thành phố Đà Nẵng tham gia thảo luận cùng với các Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh, Hòa Bình, Lào Cai, Quảng Ninh.Các đại biểu Quốc hội đã tập trung cho ý kiến những vấn đề quan trọng của dự án luật như đối tượng chịu thuế; căn cứ tính thuế; thuế suất và việc miễn, giảm thuế.

 


ĐB Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Đoàn ĐBQH thành phố Đà Nẵng cho rằng, đối với hoạt động đánh bắt hải sản xa bờ nên miễn thuế để khuyến khích ngư dân. Đối với nước sinh hoạt, hiện nay giá nước tại một số địa phương đã cao, nếu quy định thu thuế sẽ dẫn đến giá thành sản phẩm tăng. Đối với thủy điện thì cách thức thu thuế tài nguyên nước thế nào cũng là vấn đề cần được xem xét thấu đáo. Về mở rộng đối tượng chịu thuế, theo ĐB thì vàng sa khoáng hiện nay khai thác được khá nhiều, nếu quản lý thu thuế tốt thì sẽ rất hiệu quả. ĐB đề nghị quy định cách thức thu thuế đối với loại tài nguyên này. Đồng thời, ĐB đề nghị luật cần điều chỉnh theo hướng tập trung thu thuế đối với các loại tài nguyên quý của quốc gia.

Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn, ĐB thành phố Đà Nẵng cho rằng, các ĐB thấy cần thiết ban hành Luật Thuế tài nguyên thì phải tập trung thảo luận, hoàn chỉnh nội dung để ban hành luật. Về nguyên tắc, luật nâng từ pháp lệnh lên thì phải đầy đủ, rõ ràng, chi tiết hơn pháp lệnh. Tuy nhiên, dự thảo luật có một số vấn đề chưa thật sự hợp lý. ĐB đề nghị, về thuế suất đối với các loại tài nguyên như dầu thô, khí thiên nhiên, khí than đều phải do Quốc hội quyết định khung thuế suất, còn mức thuế suất cụ thể giao Chính phủ.

Trung tướng Trương Quang Khánh, ĐB tỉnh Hòa Bình cho rằng, Điều 10 dự thảo luật quy định miễn giảm thuế cho tổ chức, cá nhân Việt Nam đánh bắt hải sản xa bờ là không phù hợp với thực tế hiện nay dưới góc độ quốc phòng-an ninh. Trong những năm qua, Chính phủ có nhiều chính sách để khuyến khích đánh bắt xa bờ nhằm bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Vì để bảo vệ chủ quyền biển, đảo rất cần sự hiện diện của nhân dân. Thực tế, việc đánh bắt xa bờ phải chịu rủi ro nhiều do thiên tai, tranh chấp chủ quyền trên biển. Mặc dù Chính phủ hỗ trợ rất nhiều tiền cho ngư dân nhưng vẫn chưa thu hồi được.

Đại biểu Huỳnh Nghĩa, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH thành phố Đà Nẵng cho rằng, về thẩm quyền quy định mức thuế suất cụ thể giao cho Chính phủ là không hợp lý. Bởi bản chất của thuế suất thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước. Khuyến khích hay không khuyến khích là ở mức thuế suất. Cái gì nằm trong khung, nhóm nên để Quốc hội quyết định.
 
Theo ĐB thì khung thuế suất quy định trong dự thảo luật quá rộng, rất dễ phát sinh tiêu cực trong quá trình áp dụng luật trong thực tế. ĐB đề nghị chỉ nên quy định một mức thuế suất nhất định trong luật. Chẳng hạn đối với tài nguyên là than, vàng cần quy định một mức thuế suất, không nên để khung quá rộng như dự thảo. Ngoài ra, ĐB đề nghị cần liệt kê thêm các đối tượng chịu thuế tài nguyên trong luật, không nên chỉ dừng lại ở 7 loại đối tượng như dự thảo là quá ít, vì tài nguyên thiên nhiên của nước ta rất phong phú, tránh dẫn đến lỗ hổng trong luật về đối tượng phải chịu thuế tài nguyên, dễ dẫn đến thất thu tiền thuế cho Nhà nước.

Theo ĐB tỉnh Quảng Ninh Phạm Hồng Tài (Giám đốc Công ty Than cọc 6, Quảng Ninh) thì sản lượng tài nguyên khai thác sẽ khác với số lượng đơn vị sản phẩm tài nguyên bán, vì trong khai thác có thất thoát, khai thác ra rồi còn chế biến nên sản lượng giảm.
 
Do đó, luật nên quy định theo hướng tính thuế đối với số lượng đơn vị sản phẩm tài nguyên bán ra chứ không nên tính thuế theo sản lượng tài nguyên khai thác. Về giá tính thuế, dự thảo luật chưa quan tâm đến chi phí đầu tư để chế biến (bao gồm chế biến sâu, trang thiết bị, công nghệ). Luật chưa khắc phục được hạn chế trong xác định giá bán, chưa bóc tách được chi phí vận chuyển, chế biến. Quy định về giá tính thuế không khuyến khích chế biến sâu, trang thiết bị sàng tuyển.

ĐB Nguyễn Thị Kim Thúy (Đà Nẵng) cho rằng, nhiều quy định trong dự thảo luật chưa bảo đảm tính cụ thể. Về thuế suất, ĐB đề nghị luật cần quy định thuế suất cụ thể cho từng loại tài nguyên. Hơn nữa, khung thuế suất quá rộng, không có căn cứ để xác định, đề nghị thu hẹp. Về thẩm quyền quyết định mức thuế suất, ĐB cho rằng dự thảo luật giao cho Chính phủ là chưa phù hợp.

PHẠM HỮU HOA