Voi rừng chết vì săn bắn, voi nhà suy dinh dưỡng vì làm việc
Những năm gần đây, voi hoang dã xung đột với con người với tần suất năm sau nhiều hơn năm trước. Từ tháng 6/2012 đến nay, đã có hơn 100 đợt voi hoang dã di chuyển đến những khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp của nhân dân và các doanh nghiệp kiếm ăn, phá hoại làm thiệt hại hàng trăm ha cây trồng. Thậm chí đã có trường hợp voi tấn công làm chết và bị thương con người.
Ông Huỳnh Trung Luân - Giám đốc Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk cho biết, nguyên nhân dẫn đến tình trạng voi hoang dã xung đột với người được xác định là do con người tác động quá mức đến rừng nguyên sinh trong quá trình khai thác lâm sản cùng với việc chuyển đổi rừng sang trồng cây nông nghiệp, cây công nghiệp đã làm cho môi trường sống của voi hoang dã ngày càng thu hẹp, nguồn thức ăn bị khan hiếm dần, nhất là vào mùa khô. Từ đó, voi rừng đã thường xuyên đến nương rẫy nơi có nhiều thức ăn “để giải quyết cái đói” dẫn đến xung đột với người cũng là bất khả kháng.
Bên cạnh đó, đàn voi rừng giảm mạnh còn có nguyên do từ tình trạng voi bị săn bắn trộm để lấy ngà, như năm 2012 đã có 3 cá thể voi rừng bị sát hại bằng súng đạn. Một nguyên nhân nữa là do biến đổi khí hậu, mùa khô nguồn nước từ các sông suối khô cạn đã làm nhiều voi con chết trong lúc theo mẹ đi kiếm ăn, tìm nước uống. Trong hơn một năm qua, có đến 5 cá thể voi rừng con hoang dã bị chết, trong đó có 3 voi con sa xuống hồ nước. Từ năm 2009 đến nay đã thống kê được 22 cá thể voi rừng bị chết.
Vào những năm 1980, toàn tỉnh Đắk Lắk có khoảng 502 cá thể voi nhà thì nay chỉ còn 44 cá thể. Voi nhà tập trung ở 2 huyện Buôn Đôn và huyện Lắk và chủ yếu sử dụng vào mục đích phục vụ khách du lịch và tham gia các lễ hội văn hóa truyền thống của địa phương. Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk nhận định, đặc tính của voi là ăn nhiều loại cây trong rừng, nhưng hiện nay diện tích rừng tự nhiên để chăn thả voi nhà ngày càng bị thu hẹp và cách khá xa vùng nuôi voi nhà.
Vì vậy, chế độ ăn hàng ngày cho voi không được đảm bảo về dinh dưỡng, hơn nữa voi nhà phải thường xuyên phục vụ khách du lịch đã làm giảm tuổi thọ, khả năng sinh sản của voi. Hơn nữa mô hình quản lý voi hiện nay là độc lập theo từng tổ chức, hộ gia đình để phục vụ khai thác du lịch thường xuyên, nên voi nhà không có cơ hội gặp gỡ, giao phối... Ghi nhận trong 30 năm qua, voi nhà tại Đắk Lắk đã không sinh sản, trong khi số lượng voi đang giảm dần qua các năm.
Dự án bảo tồn khẩn cấp và dài hơi
Theo ông Huỳnh Trung Luân, việc cần làm trong công tác bảo tồn voi là kiểm soát được quần thể voi hoang dã, thực hiện các giải pháp làm giảm thiểu xung đột voi với người, thành lập các tổ chức bảo vệ voi, hỗ trợ thiệt hại cho người dân khi bị voi phá, tấn công. Hiện nay, Trung tâm Bảo tồn voi đã được cấp 200ha đất rừng nguyên sinh tại xã Krông Na, huyện Buôn Đôn làm sinh cảnh để bảo tồn voi.
Trong năm 2015-2016, trung tâm đã cứu hộ được hai cá thể voi rừng bị trúng bẫy và voi rừng con bị lạc đàn. Hiện nay, hai cá thể này đang được chăm sóc và phát triển tốt tại trung tâm và sẽ từng bước đưa trở lại thiên nhiên trong khu vực 200ha rừng nguyên sinh. Đối với voi nhà, hàng năm voi được khám chữa bệnh định kỳ, Nhà nước hỗ trợ 100% tiền khám chữa bệnh và thuốc chữa bệnh cho voi.
Trong năm 2015, Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk đã thực hiện thành công việc tạo sinh cảnh để voi nhà của hộ ông Y Mứ Bkrông- chủ voi cái Bang Nang -giao phối mang thai được hơn 20 tháng, dự kiến sinh vào cuối tháng 9/2017. Đây là tín hiệu vui đối với tỉnh Đắk Lắk nói riêng và cả nước nói chung sau 30 năm voi nhà không sinh sản.
Voi nhà mang thai, chủ hộ là Y Mứ Bkrông đã được trao kinh phí 171 triệu đồng bù cho việc voi đi phục vụ du lịch để chủ voi yên tâm chăm sóc voi Bang Nang đến khi sinh voi con nuôi lớn thành công. Cùng thời điểm này có 5 cặp voi nhà thả trong rừng tự nhiên để giao phối. Công trình nghiên cứu khoa học cấp tỉnh về khả năng sinh sản trên voi thuần dưỡng tại Đắk Lắk đang mở ra triển vọng mới cho việc bảo tồn voi nhà.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất trong bảo tồn voi hiện nay là quần thể voi hoang dã tuy đã được giám sát nhưng số lượng còn khoảng 60-80 cá thể và sinh cảnh sống tự nhiên suy giảm, chia cắt đang ảnh hưởng rất lớn cho phát triển bền vững. Trong khi đó, voi nhà có 44 con (25 voi cái và 19 voi đực) chỉ còn lại 25 con trong độ tuổi sinh sản. Bởi vậy, để voi gặp gỡ giao phối mang thai có hiệu quả cao thì vẫn cần sự đầu tư mạnh mẽ hơn nữa để sự phối hợp giữa chủ voi và Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk trong việc chăm sóc sức khỏe cho voi, xác định thời điểm voi cái động dục đưa vào rừng thả để gặp gỡ giao phối là vấn đề mấu chốt để ngày càng có nhiều voi mẹ sinh sản như voi Bang Nang.