Trước tiên, mê tín là lòng tin mù quáng không thấy lẽ thật, không đúng chân lý. Đơn cử, như tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành ngày dữ, tin số mạng sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng sao cúng hạn, tin thầy bùa thầy chú, tin cầu cúng tai qua nạn khỏi v.v... Những lối tin này không có lý luận, không đủ bằng chứng, không có lợi ích, nên gọi là mê tín.
Mê tín – từ đâu mà có?
Mê tín không phải là sự ngẫu nhiên phát sinh mà có nguồn gốc phát xuất cụ thể. Nguồn gốc thứ nhất của mê tín là do tâm mong cầu. Con người khi mong cầu một điều gì mà quá khả năng mình thì dễ sinh mê tín. Ví dụ, có người muốn vay một số vốn lớn làm ăn, không biết việc làm ăn này sẽ kết quả tốt hay xấu, tự nhiên lòng thấy băn khoăn lo lắng không biết hỏi ai, tin ai. Nghe nói ông đồng bà cốt nào đó linh ứng, nói quá khứ vị lai rất trúng, họ liền muốn tìm tới hỏi han. Chỉ tốn tiền quẻ có năm bảy trăm ngàn, mà biết được việc làm ăn của mình thành công hay thất bại thì an ổn biết mấy.
Hoặc trên đường công danh có những học sinh, sinh viên sắp đến kỳ thi cử, lo âu không biết thân phận mình thi đậu hay rớt. Nghe đồn lăng này, miếu kia linh hiển xin xăm bói quẻ sẽ báo đúng những điều sắp đến, thế là các cô các cậu nhất định đi đến lễ bái xin xăm để hỏi thăm thần thánh xem thế nào.
Hoặc có những người muốn được chức nọ vị kia, mà không biết số phận của mình là đỏ hay đen, lòng bồn chồn bất an. Có người giới thiệu ông A coi số tử vi rất hay, xem số biết vận mạng người đúng một trăm phần trăm, thế là chẳng ngại mưa gió, đường xá xa xôi đến đó để xem thử mình có số công danh hay không.
Nguồn gốc thứ hai của mê tín do tâm sợ hãi, sợ hãi là gốc sinh ra mọi mê tín. Một gia đình nọ tiếp tục xảy ra đôi ba người chết "bất đắc kỳ tử", những người còn lại đâm ra hoảng hốt, nghe đâu có thầy bùa hay thầy chú giỏi liền đi rước về ếm đối để mình khỏi bị chết trùng. Chính vì sợ hãi mà những người này sinh mê tín.
Có những người bị tai nạn dồn dập, vừa té xe bị thương lại bị người giật nợ, con trai thi rớt, con gái bị bệnh... mất bình tĩnh, nghe ông đồng này hay bà cốt kia giỏi, họ liền tìm đến để cầu cứu hộ, xin phép lạ về để trừ tai ách. Hoặc có người sợ vận xui hạn xấu, nên đầu năm đến chùa cúng sao cúng hạn, cầu cho tròn năm cuộc sống được hanh thông, gia đình được an vui may mắn. Hoặc có những người vì thương cha mẹ đã quá cố, sợ cha mẹ chết rơi vào địa ngục chịu đói khổ nhọc nhằn, họ bèn nhờ thầy cúng dán lầu kho, xe cộ, giấy tiền vàng bạc, lễ cúng đốt xuống cho cha mẹ được an hưởng nơi âm ti...
Mọi sự sợ hãi đều là cội nguồn của mê tín. Là con người có ai không mong cầu, không sợ hãi, mà đã có hai thứ này thì nhất định sẽ rơi vào mê tín dị đoan. Khi chưa gặp việc, chúng ta chống đối mê tín, nhưng gặp lúc có việc khắc khoải mong cầu, kinh hoàng sợ hãi, chúng ta cũng trở thành mê tín như ai. Dù là người có cấp bằng cao, có kiến thức rộng, nếu trong tâm có mong cầu sợ hãi, họ cũng sẽ rơi vào hố mê tín. Có những người đứng trước quần chúng thì miệt thị chê bai kẻ mê tín, song về nhà gặp lúc gia cảnh rối bời bà xã vẫn đi bói quẻ xin xăm, hỏi quá khứ vị lai nơi ông đồng bà cốt. Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sinh mê tín dị đoan. Thế nên mê tín dị đoan là bệnh bẩm sinh có sẵn nơi mọi con người.
Phật pháp dứt trừ mê tín
Nếu ai tin nơi Phật, dùng thuốc Phật dạy trị bệnh mê tín chắc chắn sẽ được lành. Pháp Phật dạy trị bệnh mê tín có hai thứ, đó là “nhân quả” và “ba cửa giải thoát”.
Đạo Phật không hề có những biểu hiện thần quyền hoặc chủ trương những hình thức mê tín dị đoan. |
Nhân quả là sự thật, là lý đương nhiên mà người đời ít ai nghĩ đến. Bởi con người cố mong cầu cái quả mà không cân xứng cái nhân, ước mơ nhặt được những cái quả ngoài tầm tay của họ hoặc không có tâm tự tín nên làm việc gì cũng ngờ vực lo âu. Cần biết rõ rằng mọi hậu quả nên - hư tốt - xấu, thành công - thất bại đều do nguyên nhân hay - dở, đủ - thiếu của con người tạo nên. Không có cái quả nào từ trên trời rơi xuống, hoặc dưới đất bỗng dưng hiện lên, mà đều do trí sáng suốt và sức lao động cần cù của con người tạo ra. Chúng ta cứ tạo nhân tốt thật đầy đủ thì quả tốt nhất định đến. Ví dụ, muốn có quả một cây cam mật, thì phải chọn giống từ quả cam mật, hoặc chiết cành từ cây cam mật; lựa chỗ đất mầu mỡ ương giống rồi tưới nước bón phân đúng thời đúng lúc, chăm sóc sâu bọ...rồi sẽ thu hoạch được quả cam mật! Không phải cứ cầu xin mà nó đến, không phải cứ xua đuổi mà nó đi, một khi nhân đã thành thì quả phải chịu. Chúng ta cầu thần khấn Phật ban bố phúc lành mà không chịu ban ơn bố đức cho những người chung quanh mình. Cầu mong quả tốt mà không chịu gieo nhân tốt, sợ hãi quả xấu mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu mong sợ hãi ấy chỉ là việc không đâu. Tốt nhất là hằng ngày cứ tạo nhân lành, tránh nhân dữ, chả cần cầu mong sợ hãi chi vô ích.
Biết rõ nhân quả tự mình gây tạo, chúng ta can đảm nhận những quả khổ mà không chút sợ hãi buồn phiền. Mình làm chủ tạo nhân, chính mình làm chủ thọ quả, còn cầu xin cái gì, cần hỏi han ai nữa. Chỉ mình sáng suốt khi tạo nhân, cần cù nuôi dưỡng bảo vệ cho nhân tăng trưởng, thì quả chín mọng sẽ đến tay mình một cách dễ dàng. Tin chắc lý nhân quả như thế, mọi mê tín sẽ tan theo mây khói, khi ấy quyền con người nằm gọn trong bàn tay chúng ta.
Còn “Ba cửa giải thoát” là Không, Vô tướng, Vô nguyện. "Không" là từ con người cho đến muôn vật đều do nhân duyên kết hợp thành, không có chủ thể nhất định. Bởi căn cứ trên lý nhân duyên, thấy vạn vật không có chủ thể nên nói là "Không". Như Phật dạy thân này do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành, thiếu một trong bốn thứ thì thân phải hoại. Chúng ta có bổn phận phải nuôi dưỡng điều hòa bốn kẻ thù này, bằng cách chọn những thức ăn uống nào để quân bình chúng.
"Vô tướng" là vì vạn vật không có thực thể nên không có tướng thật (vô tướng) của nó. Cái mà chúng ta trông thấy, sờ mó được chỉ là giả tướng của duyên hợp mà thôi. Người, vật chỉ là tướng hư giả, đã là hư giả thì có mong cầu để được, sợ hãi khi mất hay không?
Còn "Vô nguyện", thì đã thấy thân hư dối, mọi vật hư dối, không còn tham sống sợ chết, không còn đam mê vàng ngọc. Đã thấy trên thế gian này không có cái gì đáng mong cầu, đáng sợ hãi, thì còn gì phải khấn nguyền, phải van xin, phải thưa hỏi các vị thánh thần? Dùng trí tuệ này dẹp tan mê tín, như chế nước sôi trên băng. Ba cửa giải thoát này là đỉnh cao của trí tuệ, thấy tận cùng bản chất con người (ngã) và vạn vật (pháp). Chính do thấy rõ bản chất hư dối của chúng, nên gỡ bỏ mọi mê lầm cố chấp, mọi tham lam trói buộc, được tự tại an vui, gọi là giải thoát.
Tóm lại, mê tín là một tệ nạn của xã hội, tạo dựng những con người yếu hèn, mất tự tin, không sáng suốt. Muốn có một xã hội văn minh lành mạnh, chúng ta không thể nào chấp nhận nạn mê tín hoành hành. Huống nữa, trong giới Phật giáo chúng ta đang kế thừa chính pháp giác ngộ giải thoát của đức Thế Tôn, mà nuôi dưỡng chấp nhận mê tín được sao?