Tự phá hợp đồng rồi khởi kiện?
Theo bà Gắng, năm 2011, bà nhận chuyển nhượng 4 lô đất rẫy (tổng diện tích hơn 70 nghìn m2, trên đất có trồng cây cao su) của vợ chồng ông Phạm Văn Dũng, bà Nguyễn Thị Mận tại xã Hải Yang, huyện Đắk Đoa. Hai bên chỉ lập hợp đồng mua bán viết tay, chưa làm thủ tục sang tên GCNQSDĐ). Sau khi nhận đất cùng các tài sản trên đất, bà Gắng trồng thêm cây cao su mới, đổ trụ bê tông để xác định mốc giới với các hộ xung quanh.
Sau đó bà Gắng thỏa thuận chuyển nhượng 4 lô đất rẫy trên cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Thắm, ông Nguyễn Danh Dũng (trú tại đội 5, thôn Giữa, xã Cổ Dũng, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương) với giá 1,7 tỷ đồng. Ngày 30/5/2011, hai bên lập “Bản hợp đồng về việc đặt tiền cọc về mua bán đất và tài sản gắn liền” và bà Thắm đã đặt cọc 200 triệu đồng. Đến ngày 15/6/2011, bà Thắm đặt cọc thêm 200 triệu đồng và hai bên lập tiếp “Giấy biên nhận tiền đặt cọc”.
“Khi đó, hai bên thỏa thuận tôi sẽ có trách nhiệm sang tên GCNQSDĐ của 4 lô đất trên từ ông Phạm Văn Dũng, bà Nguyễn Thị Mận cho vợ chồng bà Thắm. Bà Thắm phải trả đủ số tiền mua đất còn lại cho tôi vào ngày 29/6/2011. Do tin tưởng nên sau khi nhận tiền đặt cọc mua đất lần 2 của bà Thắm, tôi đã đứng ra làm thủ tục chuyển nhượng, sang tên GCNQSDĐ trực tiếp từ vợ chồng ông Dũng, bà Mận sang tên vợ chồng bà Thắm. Việc sang tên như vậy là để cho tiện vì nếu chuyển qua tên tôi rồi mới chuyển lại cho vợ chồng bà Thắm sẽ lòng vòng, bất tiện”- bà Gắng cho biết.
Cũng theo bà Gắng, sau khi sang tên GCNQSD 4 lô đất từ vợ chồng ông Dũng, bà Mận sang cho vợ chồng bà Thắm xong, bà đã thông báo cho bà Thắm biết để trả nốt tiền, nhận đất và GCNQSDĐ nhưng lúc này, bà Thắm cho biết mình không có tiền để thực hiện hợp đồng mua đất nữa.
Cực chẳng đã, bà Gắng đã yêu cầu vợ chồng bà Thắm sang lại tên GCNQSD 4 lô đất cho bà. Vợ chồng bà Thắm đồng ý. Ngày 8/8/2011, bà Gắng cùng vợ chồng bà Thắm đã lập “Đơn xin xóa hủy hợp đồng – Hủy quyền sử dụng đất về việc đặt cọc sang nhượng đất cao su tại Hải Yang, Đắk Đoa” với nội dung: bà Thắm thừa nhận mua hơn 70 nghìn m2 đất cao su của bà Gắng và yêu cầu bà Gắng làm GCNQSDĐ. Bà Gắng đã làm xong GCNQSDĐ số BĐ 382552; BĐ 382553; BĐ 382554; BĐ 382556 nhưng vợ chồng bà Thắm không có tiền để thực hiện hợp đồng mua đất. Vợ chồng bà Thắm trả lại đất và cho bà Gắng được toàn quyền sử dụng hợp pháp và sang nhượng đất trên.
Tuy nhiên sau đó, theo bà Gắng, vợ chồng bà Thắm đã không làm thủ tục sang tên GCNQSDĐ bốn lô đất trên cho bà mà lại trình báo bị mất GCNQSDĐ để được cấp lại. “Khi tôi phát hiện và báo cáo chính quyền địa phương thì sự việc mới được ngăn chặn. Không những thế, bà Thắm làm đơn khởi kiện tôi ra TAND huyện Mang Yang, yêu cầu tuyên hủy hợp đồng về việc đặt tiền cọc mua bán đất và tài sản gắn liền lập ngày 30/5/2011, Giấy biên nhận tiền đặt cọc ngày 15/6/2011 và buộc tôi phải trả cho bà Thắm số tiền của hai giao dịch này là 400 triệu đồng”- bà Gắng cho biết.
Ngày 26/11/2015, TAND huyện Mang Yang đã đưa vụ kiện “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” giữa bà Nguyễn Thị Thắm (nguyên đơn) và bà Vũ Thị Gắng (bị đơn). Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015/DS-ST và tại Thông báo sửa chữa, bổ sung Bản án, HĐXX TAND huyện Mang Yang đã có phán quyết “không chấp nhận” yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thắm về việc xin hủy bản hợp đồng về đặt cọc chuyển nhượng nhà đất và tài sản gắn liền trên đất lập ngày 30/5/2011 và Giấy biên nhận tiền đặt cọc ngày 15/6/2011. Bà Gắng không phải trả lại cho bà Thắm số tiền đặt cọc 400 triệu đồng theo bản hợp đồng đặt cọc về việc mua bán nhà đất và tài sản gắn liền lập ngày 30/5/2011 và Giấy biên nhận tiền ngày 15/6/2011.
Không đồng tình, bà Thắm có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 9/12/2015, Viện trưởng VKSND huyện Mang Yang đã ra Quyết định kháng nghị số 01/QĐKN-VKS-DS kháng nghị về phần quyết định nghĩa vụ nộp chi phí giám định.
Ngày 23/6/2016, TAND tỉnh Gia Lai đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Nhận định 4 lô đất rẫy trồng cây cao su có nguồn gốc do bà Gắng mua của vợ chồng ông Phạm Văn Dũng, bà Nguyễn Thị Mận. Khi mua bán, hai bên chưa làm thủ tục sang tên, chỉ lập văn bản hợp đồng dưới hình thức viết tay và thỏa thuận khi nào bà Gắng cần thì hai bên sẽ làm thủ tục sang tên bà Gắng trong GCNQSDĐ. Sau khi nhận đất, bà Gắng trồng thêm cây cao su và đổ trụ bê tông để xác định mốc giới đất của mình. Sự việc này được vợ chồng ông Dũng, bà Mận thừa nhận và khẳng định không tranh chấp với bà Gắng. Do đó, theo quy định của pháp luật về dân sự và đất đai, 4 lô đất này thuộc quyền sử dụng của bà Gắng… Bà Gắng đã thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình, nhưng do vợ chồng bà Thắm không thanh toán đầy đủ tiền nhận chuyển nhượng đất và đã từ chối thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất…
Theo đó, HĐXX phúc thẩm quyết định, chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện Mang Yang và chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thắm; sửa Bản án sơ thẩm của TAND huyện Mang Yang; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thắm về việc đề nghị Tòa án tuyên hủy các hợp đồng đặt cọc giữa bên đặt cọc là bà Thắm với bên nhận đặt cọc là bà Gắng được thể hiện tại văn bản có tiêu đề “Bản hợp đồng về việc đặt tiền cọc về mua bán đất và tài sản gắn liền” lập ngày 30/5/2011 và tại văn bản có tiêu đề “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” lập ngày 15/6/2011. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thắm về việc đề nghị tòa án buộc bà Gắng trả lại tài sản đặt cọc là 400 triệu đồng. Tài sản đặt cọc 400 triệu đồng trên thuộc về bà Gắng, không phải trả lại cho bà Thắm...
Cần xem xét quyền lợi chính đáng của người dân
Bà Gắng cho biết, sau khi yêu cầu khởi kiện của bà Thắm không được các cấp tòa án tỉnh Gia Lai chấp nhận, để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình, ngày 29/8/2016 bà gửi đơn đến UBND huyện Đắk Đoa yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Dũng, bà Mận với bà Thắm để làm thủ tục sang tên GCNQSDĐ cho bà.
Nhận được đơn của bà Gắng, ngày 26/9/2016, Thanh tra huyện Đắk Đoa có Văn bản số 77/TTr hướng dẫn bà Gắng cùng các bên tham gia ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ), liên hệ với cơ quan đã chứng thực hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đã ký giữa vợ chồng ông Dũng, bà Mận và vợ chồng bà Thắm để làm thủ tục hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ theo quy định của pháp luật.
Theo hướng dẫn, bà Gắng đã làm đơn và cung cấp các tài liệu, giấy tờ liên quan đề nghị UBND xã Hải Yang hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng ông Dũng, bà Mận và bà Thắm, ông Nguyễn Danh Dũng. Ngày 8/12/2016 UBND xã Hải Yang có Quyết định số 130/QĐ-UBND hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bên ông Dũng, bà Mận và bà Thắm, ông Dũng theo Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số 89 quyển số 01 TPCC-SCT/SGT do Chủ tịch UBND xã Hải Yang ký ngày 13/6/2011 với lý do vi phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 7 và khoản 1 Điều 48 Luật Công chứng số 23/2014/QH13 ngày 20/6/2014 của Quốc hội; tại khoản 3 Điều 36 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính phủ về việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng giao dịch.
Đến ngày 28/2/2017, UBND xã Hải Yang có Tờ trình số 11/TT-UBND “về việc thu hồi, hủy bỏ GCNQSDĐ cấp trái pháp luật” gửi UBND huyện Đắk Đoa, Phòng TN&MT huyện Đắk Đoa và Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Gia Lai đề nghị xem xét thu hồi, hủy bỏ các GCN số BĐ 382552; BĐ 382553; BĐ 382554; BĐ 382556 do UBND huyện Đắk Đoa cấp cho vợ chồng bà Thắm, ông Dũng ngày 20/6/2011 với lý do các GCNQSDĐ này cấp trái pháp luật (quy định tại mục d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013). Cùng với đó, bà Gắng cũng nhiều lần gửi đơn đến UBND huyện Đắk Đoa đề nghị thu hồi, hủy bỏ các GCNQSDĐ cấp trái pháp luật cho bà Thắm, ông Dũng. Nhưng tại Văn bản số 2211/UBND-NC ngày 27/12/2017 trả lời bà Gắng, UBND huyện Đắk Đoa lại xác định đề nghị của bà Gắng là chưa đủ cơ sở pháp lý và hướng dẫn bà Gắng gửi đơn khởi kiện đến tòa án để được giải quyết.
Không đồng tình với nội dung tại Văn bản số 2211/UBND-NC bà Gắng khiếu nại, ngày 05/2/2018 UBND huyện Đắk Đoa có Văn bản số 149/UBND-NC trả lời bà Gắng xác định: nội dung khiếu nại của bà Gắng đã được UBND huyện giải quyết tại Văn bản số 2211/UBND-NC và UBND huyện sẽ không tiếp nhận, giải quyết đơn của bà Gắng nếu nội dung đơn mà trùng với nội dung đơn mà bà Gắng đã kiến nghị.
“Những tưởng sau khi UBND xã Hải Yang có Quyết định hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và có Tờ trình số 11/TT-UBND và tôi cũng nhiều đơn có đơn đề nghị UBND huyện Đắk Đoa sẽ thu hồi, hủy bỏ GCNQSDĐ đã cấp cho vợ chồng bà Thắm, ông Dũng nhưng việc thu hồi, hủy bỏ này đã không được thực hiện. Không những thế, khi tôi có đơn khiếu nại, UBND huyện Đắk Đoa cũng không ra quyết định giải quyết khiếu nại của tôi, thậm chí cho biết sẽ không tiếp nhận, giải quyết đơn của tôi như vậy là không đúng pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tôi”, bà Gắng bức xúc.
Báo PLVN sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc này.