Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 9 (10-1986)
Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 9 được triệu tập và họp từ ngày 17-10 đến 21-10-1986, tại trường Đảng Tô Hiệu. Dự Đại hội có 466 đại biểu, thay mặt gần 70.000 đảng viên của Đảng bộ. Đồng chí Đỗ Mười, ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về dự.
Đại hội diễn ra trong bối cảnh lịch sử có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trên tầm vĩ mô, quyết tâm xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện đường lối đổi mới đất nước của BCH Trung ương Đảng dần được khẳng định trong quá trình chuẩn bị tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ VI. Bước vào năm 1986, Hải Phòng được chọn thực hiện thí điểm một số chủ trương, chính sách mới về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế-xã hội của Trung ương. Tình hình kinh tế-xã hội thành phố tuy đứng trước những khó khăn gay gắt, nhưng tiếp tục có những chuyển biến tích cực, tiến bộ. Thực hiệncác chỉ thị 79, 80/CT-TƯ của Ban Bí thư, toàn Đảng bộ đã triển khai sâu rộng đợt sinh hoạt tự phê bình; góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện Đại hội 6 của Đảng, dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ trình Đại hội 9; tổ chức thành công Đại hội các cấp. Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 9 có những nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Thảo luận, thông qua Báo cáo tập hợp ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên vào các sự thảo văn kiện Đại hội 6 của Đảng.
Thảo luận Báo cáo Chính trị của BCH Đảng bộ, quyết định phương hướng, nhiệm vụ của 5 năm (1986-1990).
Bầu Ban Chấp hành Đảng bộ mới.
Bầu đoàn đại biểu Đảng bộ thành phố đi dự Đại hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng.
Đại hội nghe trình bày báo cáo tổng hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên, trong đó có 32.000 ý kiến đóng góp vào dự thảo báo cáo chính trị 63.324 ý kiến vào Báo cáo sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng. Đại hội có thêm 40 đại biểu phát biểu thảo luận tại hội trường về nội dung trên. Trên cơ sở đó, Đại hội đã thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp vào các dự thảo văn kiện Đại hội 6 của Đảng.
Trên cơ sở đánh giá tình hình những năm 1982-1985 với tinh thần cách mạng, nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy, thấy rõ thành tựu, ưu điểm và những yếu kém, Đại hội quyết định phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ thành phố 5 năm 1986-1990:
Vè quy mô xây dựng, phát triển kinh tế- xã hội của thành phố: Đưa Hải Phòng mau chóng trở thành thành phố có Cảng hiện đại, có công nghiệp-nông nghiệp-văn hóa-dich vụ phát triển; là một trong những trung tâm công nghiệp, vận tải, xuất nhập khẩu và du lịch vùng, một pháo đài thép chống xâm lượcccc.
Về phương hướng, nhiệm vụ trong những năm trước mắt, Đại hội chỉ rõ: Vận dụng đúng đắn hệ thống quy luật kinh tế khách quan, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể XHCN, khai thác mọi tiềm năng lao động, đất đai, mặt nước, ngành nghề khoa học kỹ thuật, nhất là lợi thế của Cảng, đầu mối giao thông vận tải, có vùng biển dài và rộng; tiếp tục coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; đồng thời rất coi trọng phát triển công nghiệp, kinh doanh vận tải, từng bước tăng cường hoạt động dịch vụ-du lịch, kết hợp chặt chẽ với xuất nhập khẩu, gắn sản xuất với lưu thông, kinh tế với văn hóa-xã hội, an ninh-quốc phòng, cân đối thu chi ngân sách, tích lũy trong nội bộ nền kinh tế quốc dân, cùng với sử dụng có hiệu quả vốn vay nước ngoài nhằm tạo thế ổn định và phát triển kinh tế thành phố trong những năm đầu của thập kỷ 90000.
Tập trung thực hiện 7 nhiệm vụ và mục tiêu lớn:
Phát triển mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp, đồng thời rất coi trọng ổn định và phát triển sản xuất công nghiệp và TTCN, quan hệ chặt chẽ giữa nông nghiệp và công nghiệp, đảm bảo tăng nhanh khối lượng hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của thành phố, liên kết với các địa phương bạn và xuất khẩu.
Phấn đấu:
+ Năng suất lúa đạt 70 tạ/ha trở lên. Đàn lợn từ 320.000 đến 350.000 con.
+ Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 18%/năm. Nâng tỷ trọng hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu lên từ 65% đến 70%.
+ Tổng kim ngạch ngoại tệ xuất khẩu tăng 2 lần.
Hướng mọi cố gắng vào ổn định dần đời sống vật chất, vănhóa của nhân dân. Trước hết là giải quyết về ăn, ở, đi lại, thuốc chữa bệnh thiết yếu, học hành; đặc biệt tập trung giải quyết cho được vấn đề nước và điện đô thị. Phấn đấu giải quyết việc làm cho phần lớn người đến tuổi lao động. Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng con người mới XHCN, phòng chống 6 tệ nạn xã hội.
Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH. Hướng đầu tư ưu tiên cho nông nghiệp và ngư nghiệp; coi trọng đầu tư cho công nghiệp, TTCN, điện, giao thông, nhà ở, trường học, y học v.v... Chỉnh trang thành phố cũ, từng bước hình thành phố mới vươn ra biển.
Đẩy mạnh cải tạo XHCN, tăng cương củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện cơ chế quản lý mới. Tiếp tục phân cấp cho quận, huyện, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất-kinh doanh cho các đơn vị kinh tế cơ sở.
An ninh chính trị vững, trật tự an toàn xã hội có chuyển biến tốt. Quốc phòng đủ mạnh, chủ động sẵn sàng chiến đấu trong mọi hình huống.
Đảng bộ đoàn kết nhất trí. Tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh. Đội ngũ cán bộ trưởng thành, thích ứng với nhiệm vụ chính trị và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế-xã hội.
Phong trào cách mạng của quần chúng phát triển đồng đều, tiến quân mạnh mẽ vào 3 cuộc cách mạng, tập trung vào đổi mới cơ chế quản lý kinh tế-xã hội, thực hành tiết kiệm và đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 45 ủy viên chính thức, 13 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Danh Xương được bầu làm bí thư Thành ủy. Các đồng chí Trương Quang Được, Trần Văn Thức được bầu làm Phó Bí thư Thành ủy. Ban Thường vụ Thành ủy có 13 đồng chí. Đại hội bầu đoàn đại biểu đảng bộ Hải Phòng dự Đại hội VI của đảng gồm 33 đồng chí (có 6 đại biểu do Trung ương giới thiệu).
Năm năm tiến hành thực hiện công cuộc đổi mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội 6 của Đảng, Đại hội 6 của Đảng, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 9 Đảng bộ, quân và dân Hải Phòng đã nêu cao tinh thần chịu đựng, nỗ lực tháo gỡ khó khăn, giành được những thắng lợi bước đầu rất quan trọng:
Quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố đã đổi mới cơ bản về tư duy, nhất là tư duy kinh tế; nhất trí cao với chủ trương chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thanh phần, chấp nhận và bước dầu thích nghi với cơ chế thị trường. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý Nhà nước, lãnh đạo các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh traei qua thực tiễn thực hiện cơ chế mới, đã có sự trưởng thành nhất định; đồng thời thấy rõ được những yếu kém cần phải khắc phục. Tính chủ động trong sản xuất-kinh doanh, trong công tác, học tập và lo toan đời sống của toàn xã hội là một thành tựu hết sức có ý nghĩa.
Đường lối đổi mới của Đảng, các cơ chế, chính sách mới dần đi vào cuộc sống, bước đầu có tác dụng tích cực, khơi dậy, phát huy, khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế-xã hội và các tầng lớp nhân dân. Các hoạt động kinh tế-xã hội được duy trì; một số mặt giữ được ổn định, tìm được hướng tháo gỡ khó khăn để phát triển.
Đời sống nhân dân có mặt được cải thiện, nhất là giảm được tình trạng căng thẳng về lương thực.
Thực hiện thắng lợi mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, đảng và hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn, bước đầu đổi mới nội dung, phương thức hoạt động.
Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, kinh tế-xã hội đất nước khủng hoảng, kinh tế xã hội thành phố bộc lộ những mặt yếu kém:
Kinh tế sa sút.
- Một số mặt văn hóa-xã hội xuống cấp.
Tình hình trật tự an toàn xã hội lộn xộn.
Đời sống người lao động nhiều mặt rất khó khăn.
Ngoài những yếu tố khách quan tác động, báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ thành phố trình Đại hội 10 đã chỉ rõ 4 nguyên nhân chủ quan của những yếu kém trên:
Một là: Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ lần thứ 9 đề ra khi chưa có nghị quyết Đại hội 6 của đảng. Sự chuẩn bị của Thành ủy thời điểm đó còn chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, chưa lường hết tình hình diễn biến khó khăn nên nhiều chỉ tiêu còn thiếu căn cứ thực tiễn; quá trình chỉ đạo thực hiện chưa có biện pháp điều chỉnh, bổ khuyết kịp thời, hiệu quả.
Hai là: Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chưa chú trọng bổ sung quy hoạch tổng thể, chưa đề ra chương trình kinh tế-xã hội có tính lâu dài; chậm nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề về hướng đi lên của thành phố gắn với kinh tế vùng và khu vực. Chưa kịp thời điều chỉnh cơ cấu kinh tế thành phố cho phù hợp với cơ chế thị trường.
Ba là: Chưa tập trung cao vào công tác xây dựng đảng, chính quyền, chậm đổi mới công tác vận động quần chúng.
Bốn là: Năng lực chỉ đạo chỉ thực hiện của các ngành, các cấp còn yếu, chưa theo kịp với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ.
Mặc dù bộc lộ nhiều yếu kém, nhưng những kết quả mà Đảng bộ, nhân dân thành phố nhờ tinh thần chịu đựng nỗ lực tìm cách tháo gỡ khó khăn đã giành được có ý nghĩa hết sức to lớn, tạo đà cho Hải Phòng cùng cả nước từng bước ra khỏi khủng hoảng, giành được những thành tựu mới trong những năm tiếp theo.