Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 7 (7-1979)

Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 7 diễn ra trong 4 ngày, từ 30-6-1979 đến 4-7-1979, tại trường Đảng Tô Hiệu. Dự đại hội có 460 đại biểu chính thức, 36 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 52.366 đảng viên toàn Đảng bộ. Đồng chí Đỗ Mười, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ về dự.

Đại hội diễn ra trong bối cảnh những khó khăn kinh tế- xã hội sau chiến tranh, thiên tai, thời tiết khắc nghiệt và hậu quả của các cuộc chiến tranh biên giới phía Tây- Nam, phía Bắc tác động sâu sắc đến tình hình thành phố. Sau 2 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội 4 của Đảng, bên cạnh những thắng lợi và chuyển biến tiến bộ, sản xuất công nghiệp tăng trưởng chậm. Nhiều nhà máy, xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch Nhà nước. Sản xuất nông nghiệp trì trệ, nhiều mặt giảm sút. Nghề cá sa sút nghiêm trọng. Tiêu cực xã hội phát triển, đời sống công nhân, nhân dân lao động có nhiều khó khăn. Những khó khăn yếu kém đó biểu hiện tập trung nhất trong tình hình hoạt động của Cảng Hải Phòng: hàng hóa ứ đọng lớn; bốc xếp, giải phóng hàng hóa chậm; tệ trộm cắp hàng hóa, vật tư, tài sản của Nhà nước diễn biến nghiêm trọng. Chính vì những lẽ trên mà trong quá trình chỉ đạo, góp ý xây dựng phương hướng, nhiệm vụ tại Đại hội kỳ này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu Đảng bộ Hải Phòng phải có những chủ trương, giải pháp khắc phục khó khăn, phải coi vấn đề Cảng Hải Phòng là vấn đề bức xúc số một...

Quán triệt sự chỉ đạo trên, Đại hội đã tập trung thảo luận, phân tích kỹ, nhất trí với báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa 6 đánh giá tình hình thành phố, khẳng định những thành tích đã đạt được; đồng thời cũng nghiêm túc chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm yếu kém; xác định rõ những khó khăn phải nỗ lực vượt qua.

Đại hội đã tập trung trí tuệ xây dựng và nhất trí thông qua phương hướng, nhiệm vụ hai năm 1979- 1980: 'Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống trung dũng- quyết thắng, tinh thần làm chủ tập thể XHCN, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần cảnh giác cách mạng, ra sức khai thác mọi tiềm năng về lao động, đất đai, hồ ao, sông biển, công suất máy móc thiết bị và những tài nguyên khác, đẩy mạnh sản xuất; hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, bảo đảm và ổn định đời sống nhân dân; tăng cường an ninh- quốc phòng, bảo vệ thành phố; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, cùng cả nước đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.

Khi chưa trực tiếp chiến đấu với kẻ thù, phải tập trung làm thật tốt nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, giữ vững trật tự an ninh, chi viện tiền tuyến. Các địa phương tuyến I phải coi trọng ngang nhau cả hai nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và sản xuất...'.

Đại hội xác định rõ 6 nhiệm vụ:

1- Ra sức phát triển kinh tế, đẩy mạnh mọi mặt hoạt động của Cảng, trọng điểm số một của thành phố. Phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp, nhất là công nghiệp cơ khí, phục vụ tốt nông nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, quốc phòng và các ngành kinh tế khác. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tập trung sức toàn thành phố tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhiệm vụ hàng đầu là nông nghiệp, ngư nghiệp; trọng tâm là sản xuất lương thực, thực phẩm. Đẩy mạnh công tác xây dựng cơ bản vừa phục vụ tốt sản xuất, đời sống, vừa đáp ứng yêu cầu của chiến đấu và quốc phòng.

2- Quan tâm bảo đảm và ổn định đời sống nhân dân, cố gắng hết sức mình giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách về đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lúc bình thường cũng như khi có chiến tranh.

3- Đẩy mạnh cuộc vận động tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý các ngành kinh tế, cải tiến công tác kế hoạch hóa cả về nội dung và phương pháp. Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; kiên quyết chống buông lỏng quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

4- Nâng cao cảnh giác cách mạng, thực hiện quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân, toàn dân đánh giặc, khẩn trương xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân. Xây dựng và hoàn chỉnh các tuyến phòng thủ vững chắc, tăng cường sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ thành phố. Làm tốt công tác tuyển quân, chi viện tiền tuyến, công tác hậu phương quân đội.

5- Phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao, y tế, xã hội. Thực hiện cải cách giáo dục, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học- kỹ thuật. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân kỹ thuật.

6- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nhất là ở cơ sở, đảm bảo trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Giải quyết cơ bản các cơ sở yếu kém, kiên quyết đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng; đẩy mạnh công tác phát triển Đảng. Thực hiện tốt chính sách và quy hoạch cán bộ. Tăng cường hiệu lực quản lý của chính quyền. Ra sức kiện toàn tổ chức và cải tiến chế độ làm việc. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh mẽ, đều khắp, có hiệu quả cao.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa 7 gồm 41 ủy viên chính thức, 4 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Bùi Quang Tạo được bầu làm Bí thư Thành ủy. Các đồng chí Đoàn Duy Thành, Chủ tịch UBND thành phố và Nguyễn Văn Bút được bầu làm Phó bí thư Thành ủy.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 7 và Nghị quyết Trung ương 6 (khóa 4-1979), Đảng bộ, quân và dân thành phố đã chủ động, năng động, sáng tạo vượt lên khó khăn, giành được những thắng lợi mới tương đối toàn diện. Chủ động đổi mới chơ chế quản lý kinh tế, tư duy kinh tế trở thành khâu đột phá, tạo ra những động lực mới thúc đẩy kinh tế- xã hội thành phố bước đầu phát triển trong 3 năm 1979- 1982. Nghị quyết Trung ương 6 (khóa 4) được quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả:

- Sản xuất nông nghiệp: Ban Thường vụ Thành ủy ra Nghị quyết 24/NQ-TU về áp dụng cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (1980). Nghị quyết 24/NQ-TU của Ban Thường vụ Thành ủy cùng với Chị thị 100/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã được coi là 'chìa khóa vàng' mở đường cho nông nghiệp thoát ra khỏi tình trạng sa sút, trì trệ và có bước phát triển mới. Năm 1982 so với 1979, năng suất lúa đạt 61,84 tạ/ha, tăng 19,28 ta/ha. Sản lượng thóc đạt 277.543 tấn, tăng 89,081 tấn. 6 huyện vượt qua cửa ải 50 tạ/ha; 4 huyện đạt trên 60 tạ/ha. Đàn lợn đạt 251.000 con, tăng 47.400 con. Lấn biển được 8.000 ha, đưa vào sản xuất lúa 3.300 ha. Khai thác cá biển và sản xuất muối tăng khá. Sản lượng thu mua và giao tôm xuất khẩu tăng gấp 6 lần.

- Sản xuát công nghiệp, xây dựng cơ bản: bước đầu áp dụng cơ chế trả lương khoán sản phẩm, đẩy mạnh liên doanh, liên kết giữa công nghiệp Trung ương và công nghiệp địa phương; giữa công nghiệp và các HTX tiểu thủ công nghiệp. Do đó, đã hạn chế được sa sút, giữ vững đội ngũ công nhân, từng bước tháo gỡ khó khăn để đi lên. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp và TTCN năm 19982 vượt kế hoạch 4,5%, tăng hơn năm 1981 là 4,7%.

Dồn sức đầu tư cho xây dựng cơ bản, tập trung hoàn thành hàng chục công trình trọng điểm bao gồm: các công trình thủy lợi đầu mối, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, đô thị, bước đầu thay đổi một phần bộ mặt của thành phố, mở rộng thành phố vươn ra biển.

- Đẩy mạnh một bước hoạt động nội, ngoại thương phục vụ sản xuất, đời sống và tích lũy vốn ban đầu cho đầu tư phát triển. Năm 1982, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 466,5 triệu dồng, thu ngoại tệ đạt 8 triệu rúp- đô la tăng 3 lần so với năm 1979.

- Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của Cảng, kiến nghị và góp phần tích cực thực hiện quyết định 81/QĐ-TW và thông báo số 12/TB-TW của Ban Bí thư Trung ương về gấp rút chấn chỉnh và tăng cường quản lý Cảng Hải Phòng. Hoạt động của Cảng bước đầu có chuyển biến tốt. Năm 1982, các vụ trộm cắp tài sản Nhà nước giảm 43% so với năm 1981.

- Các mặt văn hóa- xã hội có những chuyển biến tích cực. Khó khăn về đời sống nhân dân được khắc phục một phần.

- Chủ động và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng- an ninh.

- Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và vận động quần chúng đạt nhiều kết quả mới. Cơ bản hoàn thành việc phát thẻ đảng viên. Củng cố tổ chức cơ sở Đảng yếu kém đạt kết quả tốt. Cụ thể hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, thực hiện phương châm 'dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra' bước đầu đạt hiệu quả tốt.