Đại học chỉ là phổ thông cấp 4

 Trước thực trạng cơ sở vật chất (CSVC) các trường ĐH, CĐ của Việt Nam không đáp ứng nhu cầu học tập và giảng dạy, Viện Nghiên cứu thiết kế trường học đã tiến hành khảo sát vấn đề này trong hệ thống các trường ĐH đa ngành ở Việt Nam. KTS.TS Trần Thanh Bình, Viện trưởng cho biết:

Trước thực trạng cơ sở vật chất (CSVC) các trường ĐH, CĐ của Việt Nam không đáp ứng nhu cầu học tập và giảng dạy, Viện Nghiên cứu thiết kế trường học đã tiến hành khảo sát vấn đề này trong hệ thống các trường ĐH đa ngành ở Việt Nam. KTS.TS Trần Thanh Bình, Viện trưởng cho biết:

Bình mới, rượu cũ

ĐH đa ngành là xu hướng tất yếu của giáo dục ĐH. ĐH đơn ngành đã trở thành “lỗi mốt”, không phù hợp với hội nhập quốc tế. Cách đây 10 năm, WB (ngân hàng thế giới) đã có khảo sát, đánh giá xu hướng đa ngành là tất yếu tại các trường ĐH.

a
KTS.TS Trần Thanh Bình

Còn tại Việt Nam, mức đa ngành ngày đó rất thấp. Nhưng sau 10 năm, trường nào mở ra cũng là trường đa ngành. Tuy nhiên, thực tế các trường lại không đi sâu vào “chất”. Vì để đạt được trường ĐH đa ngàng phải có đầy đủ các yếu tố đảm bảo. Chúng tôi chọn những trường ĐH đa ngành vì nó là bức tranh tổng quát đối với các trường ĐH Việt Nam.

 * Vậy theo ông, cơ sở vật chất của những trường này đã thực sự “đa ngành”?

- Hầu như vẫn “đơn ngành”. Ở nước ngoài, để thành lập các trường ĐH, điều lệ của họ hết sức đơn giản. Họ chỉ cần trả lời 3 câu hỏi: dạy cái gì (nội dung chương trình), ai dạy (đội ngũ giáo viên) và dạy ở đâu (cơ sở vật chất).

Trong khi đó, thực tế tại Việt Nam có nhiều trường nâng cấp từ trường sư phạm lên thành đa ngành. Nhưng cơ sở vật chất chỉ đáp ứng được đào tạo cơ bản, chưa đủ điều kiện để đáp ứng đào tạo các ngành khác. Về chương trình, tôi nghĩ không khó, vì có thể nhập khẩu chương trình tiên tiến. Nhưng cơ bản là không có cơ cấu để đi kịp giảng dạy theo chương trình đó. Hiện nay các trường chỉ đổi tên, còn cơ sở vật chất thì đổi mới rất chậm.

Hơn nữa, chúng ta đang hô hào chuyển sang đào tạo tín chỉ. Nhưng lại không biết rằng để học được một môn của tín chỉ, sinh viên phải qua 6 loại phòng học khác nhau. Bao gồm: phòng học thông thường (phòng học dạy theo lớp), giảng đường chuyên dụng (những giảng đường lớn, giảng đường dốc, tạo ra sự tương tác giữa giáo viên với sinh viên, không phải giảng đường dùng điện thanh như Việt Nam), phòng học thảo luận theo nhóm (theo đơn vị chúng tôi tính toán thì phòng học này nhiều nhất là nửa lớp hoặc 1/3 lớp), các phòng học chuyên dụng (dành cho các ngành nghề khác nhau.

Ví dụ như sư phạm. cần có phòng thị khán); phòng học đặc thù như phòng học cho tin học, ngoại ngữ; phòng thí nghiệm. Riêng phòng thí nghiệm cũng có nhiều loại: bộ môn, nghiên cứu, cơ sở… Còn ở Việt Nam có một phòng học đa năng là coi như xong, dạy được hết.

ĐH là phổ thông cấp 4

 * Thực trạng thư viện, và thí nghiệm như thế nào, thưa ông?

- Hiện nay, thư viện là một trong những cơ cấu cần thay đổi lớn nhất trong các trường ĐH. Thư viện của bất cứ một trường ĐH nào của nước ngoài, mọi không gian đều tạo cho sinh viên không khí học tập và tư thế chủ động. Còn ở Việt Nam thì rất cực đoan.

Trước kia thư viện chỉ có hai chức năng: cho mượn sách đọc tại chỗ và cho mượn sách về nhà. Đến bây giờ, cứ nghĩ có thư viện điện tử là hiện đại. Thực tế, để có một thư viện điện tử phải có một dự án rất lớn, và chúng tôi quan niệm, thư viện điện tử chỉ là một cấu phần của hệ thống thư viện.

Để thư viện phát huy hết vai trò của mình và là trái tim của một trường ĐH thì phải có góc hội thảo, có nhiều không gian hơn. Thư viện là một trong những yếu tố đáng lẽ ra phải đi vào đột phá để thay đổi khả năng học, nội dung chương trình. Cơ sở vật chất của một trường ĐH phải là 3 yếu tố: đáp ứng nhu cầu dạy và học của thầy và trò; tạo ra một không gian để người học và người dạy thích thú với công việc của mình.

Chúng ta đang chống đọc – chép nhưng cơ sở vật chất vẫn thế, giảng viên vẫn giảng ở lớp với mic và loa thì không thể thay đổi được. Cái này là yếu nhất của Việt Nam trong giảng dạy; thứ 3 là dự báo. Chương trình thay đổi nhanh, trong khi cơ sở vật chất lại mang tính cố định. Khi thay đổi chương trình, không thể đập đi xây lại.

 * Tại sao ông lại cho rằng ĐH là phổ thông cấp 4?

- Không phải chỉ riêng tôi nhận định. Thực ra nghe người khác nhận định như thế trong khi mình làm công tác thiết kế và quy hoạch, mình rất “đau”. Nhưng thực tế, tại sao nó lại là trường phổ thông? Trường phổ thông cấp 4 vì sinh viên vào lớp học ĐH vẫn chỉ là nghe thầy giảng trò chép. Còn tín chỉ phải khác. Sinh viên tự thiết kế chương trình học. Làm sao để có thể thiết kế được con đường ngắn nhất để có thể nghe được bài giảng từ giảng đường này đến giảng đường kia. Như vậy, họ không phải học ĐH 4 – 5 năm mà chỉ học 3 năm hay 3.5 năm.

 * Có thể nhận thấy,qua báo cáo của các trường, các trường chưa nhìn thẳng vào yếu kém của mình, ông nghĩ sao?

- Ở các hội nghị, hội thảo, mục tiêu của các trường là: tôi rất tốt nhưng tôi vẫn thiếu tiền, mọi người hãy đầu tư cho tôi. Không khí chung là như vậy. Còn thông điệp của chúng tôi là : hiện nay giữa quy mô và cái trường có rất cách xa nhau. Ví dụ ĐH Bách khoa được Liên Xô thiết kế đầu tiên chỉ đáp ứng dạy 2000 sinh viên. Bây giờ sinh viên gấp 10 lần, cơ sở vật chất “nở” ra được bao nhiêu? Phòng thí nghiệm vẫn còn theo mô hình từ năm 1900... đã lâu.

Không những thế các trường kỹ thuật còn rất kém trong việc liên thông với cơ sở bên ngoài. Trường ĐH lẽ ra phải là nơi nghiên cứu những vấn đề này vấn đề khác, các giải thưởng phải thuộc về các trường ĐH, không phải nằm tại các viện nghiên cứu. Tại sao các trường ĐH của chúng ta không làm được việc đó bởi vì trang thiết bị quá cũ kỹ thì làm sao sinh viên phát triển. Tất nhiên, hiện nay mình đang có phòng thí nghiệm trọng điểm. Phòng thí nghiệm này sẽ góp phần tạo ra các mũi nhọn trong nghiên cứu khoa học.

 * Cơ sở vật chất hiện nay của các trường và quy mô sinh viên đang cách xa nhau, điều này sẽ ảnh hưởng như thế nào?

- Từ trước tới nay mình không có một tiêu chí đánh giá. Hiện nay chúng ta không dám nhìn thẳng vào sự thật rằng: ở cơ sở vật chất các trường mới đáp ứng được ở mức nhất định. Các trường thấy cái gì cũng thiếu nên cái gì cũng xin. Trong khi đó, đáng lẽ ra phải xin những cái cần thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng.

Ví dụ như là một trường hàng đầu về kỹ thuật thì phải tập trung vào những phòng thí nghiệm, phòng thực hành. Tôi thấy ngạc nhiên là các trường sư phạm của mình mọi người đi tây đi tàu nhiều mà không thấy được rằng cần phải có những phòng dự khán chuyên dụng. Những phòng này xây không khó, không phải cái gì cũng mất nhiều tiền.

Ngoài ra, hiện nay có nhiều trường đào tạo chương trình tiên tiến nhưng cơ sở vật chất không thay đổi tương ứng thì làm sao có thể chuyển tải hết được chương trình.

 * Bài toán này nên giải thế nào, thưa ông?

- Tôi nghĩ nên theo cơ chế thị trường. Không thể có chuyện chất lượng đi đôi với quy mô. Bây giờ giáo dục ĐH việt Nam khôi hài ở chỗ quy mô tăng lên quá nhanh trong khi những điều kiện để đảm bảo cho quy mô lại không có thì làm sao có chất lượng được. Do đó, các trường phải công khai cơ sở vật chất.

Xin cảm ơn ông!

Uyên Na (thực hiện)