Cuối năm người Việt tưởng nhớ tổ tiên

Cuối năm người Việt tưởng nhớ tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên là nét đẹp trong văn hóa người Việt. (Nguồn: VOV)

(PLVN) Người Việt hay có câu “sống về mồ về mả”, nên hằng năm vào tiết Thanh Minh, rằm tháng 7 hay vào những tháng cuối năm, dân ta lại quay về chăm chút cho người đã khuất. Đó là cách tưởng nhớ cha ông lâu bền nhất của con cháu.

Vì sao lại có tục cải táng?

Tục xưa cho rằng tục cải táng (hay gọi là bốc mả, bốc mộ) có nhiều nguyên cớ, như vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất quan tài sơ sài, gỗ xấu, không bền chắc. Sau 3 năm đoạn tang hay thêm vài năm nữa, con cháu tiến hành xem ngày lành tháng tốt để cải táng, dùng tiểu sành cho xương cốt vào. Người xưa dùng tiểu sành coi như là “thiên niên vạn đại”.

Hai là, vùng đất chôn cất lụt lội, có tổ mối, lúc chôn cất tạm bợ, nên con cháu muốn đưa sang chỗ đất cao ráo hơn. Hay khi mất phải bắt buộc chôn cất xa quê hương, nay bốc đưa về quê cũ cho gần tổ tiên, con cháu tiện chăm sóc mộ phần.

Cuối cùng vẫn là mê tín, nghe thầy địa lý, phong thủy. Thấy mồ mả vô cớ sụt đất, cây cối, cỏ mọc trên mộ tự nhiên khô héo, trong nhà có kẻ bệnh hoạn, ốm đau liên miên, hoặc có kẻ dính vào luật pháp, kiện tụng… Thầy phán do động mồ mả vì có rễ cây xâm nhập, khiến hài cốt không yên.

Cũng có nhiều lý do từ sự chủ quan của người sống. Như muốn con đường danh vọng, quan lại phát triển, tìm thầy bói, thầy phong thuỷ để cất mả đến chỗ đất đẹp, gần nơi mình cư trú để “ăn lộc” tổ tiên.

Trong sách “Việt Nam phong tục” tác giả Phan Kế Bính viết: “Nhiều người tin thầy địa lý quá, mời thầy địa lý phụng dưỡng hai ba tháng trong nhà để đi tìm đất. Có nhà động thấy trong nhà không yên thì lại cải táng đến năm, sáu lần”, nên người xưa có câu “bói ra ma, quét nhà ra rác” là vậy.

Nhà nghiên cứu dân tộc học người Pháp Gustave Dumoutier trong cuốn “Tiểu luận về dân Bắc Kỳ” còn cho biết thêm tục: “Xem giò gà để định chỗ để phần mộ. Phải xem cả điểm trên phần đất được chọn. Ngón giữa tượng trưng cho huyệt đạo, ngón nội và ngoại là hổ và địa long, khi ba ngón đó có đường huyết đỏ sẫm đẹp mắt, trong khi vuốt cong lại chĩa về ngón giữa, đó là dấu chỉ mạch đất chỗ đó thuận lợi. Nếu đường huyết bị cắt ngang trên các ngón nội và ngoại, còn vuốt quắp lại chĩa về ngón giữa, đó là quẻ đại cát. Dân An Nam còn xem ruột và nội tạng gà trống, nhưng sau chân, bộ phận trên con gà cho những chỉ dẫn rõ ràng nhất là phần đầu, đặc biệt là bộ óc. Mỏ mở, mắt khép, với vẻ đang ngủ, không có vết nào, nói chung là những điềm tốt, nhưng nếu đầu méo mó, lốm đốm, với phần dưới sọ và phía dưới mỏ đen sạm, mắt mở, mỏ ngậm, thì phải hết sức dè chừng”.

Nhà nghiên cứu Nhất Thanh cho rằng tục cải táng cũng là quan niệm tốt, lòng yêu thương con cháu với người đã khuất: “Nói cho cùng vốn dĩ người mình vẫn coi trọng đạo hiếu, từ tổ tiên đến ông bà cha mẹ đến mình vẫn có tương quan, hài cốt tiền nhân có được yên lành ấm cúng thì con cháu mới được mạnh giỏi và làm ăn mát mẻ, hài cốt không yên thì con cháu cũng khó mà yên vui; cũng như ta tin tưởng trong lúc đại tang là “vận áo xám” thường gặp rủi ro việc gì cũng không được tốt lành, là vì đang lúc ấy thi thể của cha mẹ rữa nát, bị hủy hoại, tất phải có cảm ứng liên hệ đến con cháu cùng huyết mạch. Dù không muốn tin cũng vẫn bị ảnh hưởng ít nhiều về những thành kiến ấy”.

Có tục cải táng thì cũng có tục khuyên ngăn con cháu không nên cải táng. Phan Kế Bính trong “Việt Nam phong tục” cho biết: “Một là, khi đào đất thấy có con rắn vàng thì cho là long xà khí vật. Hai là, khi mở quan tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quanh quýt thì cho là đất kết. Ba là, hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo không có nước, hay là nước đóng giọt lại như sữa đều là tốt. Khi nào gặp như thế thì phải lập tức lấp lại ngay”.

Câu chuyện cải táng

Trong “Cung oán ngâm khúc”, nhà thơ thuộc dòng dõi quý tộc Nguyễn Gia Thiều viết: “Trăm năm còn có gì đâu/Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì…”. Một triết lý nhân sinh của ông về thân phận con người là “sinh ra từ bụi cát và trở về bụi cát”. Dù là như vậy, nhưng với người Việt vẫn coi trọng “sống về mồ về mả/Ai sống về cả bát cơm”. Mồ yên, mả đẹp vẫn là thao thức của người đang sống với người đi xa. Nên tục cải táng rất coi trọng một cách kỹ càng.

Trước tiên là phải chọn ngày tốt, tránh việc khắc xung với tuổi người chết. Trước hôm bốc mộ, làm lễ cáo vọng với tổ tiên. Đến hôm cải táng làm lễ báo với thổ thần nơi mả xin đào lên và cúng thổ thần nơi vùng đất mới đã được chọn.

Sau khi mở nắp quan tài, người nhà cẩn thận thu lượm không để sót một cái xương nào, dù những đốt xương nhỏ nhất ở ngón tay, chân… “xương được rửa sạch, xếp gọn vào một cái tiểu sành, rảy nước ngũ hương, phủ giấy trang kim, đậy nắp tiểu, đem táng nơi khác, xa gần tuỳ đất đã chọn, không bao giờ lại táng luôn nơi cũ. Trong khi nhặt, rửa, xếp xương, phải kiêng giữ không để ánh mặt trời soi vào. Nhà giàu sang gói bọc xương bằng gấm vóc như liệm lúc chết và ngoài tiểu lại có quách bằng gỗ quý sơn son thếp vàng sang trọng…” (theo “Đất lề quê thói” của tác giả Nhất Thanh).

Ngày cải táng, nhiều nơi con cháu đội khăn tang, mặc áo trắng, khóc lóc vì thương nhớ. “Trước khi hung táng thì đắp mộ hình vuông, sau khi cải táng thì đắp hình tròn. Nhà phú quý thì xây lăng, nhà thường thì dựng mộ chí, đợi khi tuần tiết đến thăm viếng” (theo “Việt Nam phong tục” của tác giả Phan Kế Bính).

Người xưa quan niệm rằng, quan tài khi cất lên nếu gỗ mục nát đem đốt đi, còn tốt thì làm cầu, làm chuồng trâu, bò… để trâu, ngựa khỏi sâu chân. Cũng có thêm tục chữa bệnh rằng nếu ai đau tức thì lấy mảnh ván quan tài nát đốt lên, để dưới gầm giường khi nằm sẽ khỏi đau tức.

Bây giờ thời hiện đại, người bước sang tuổi 60, 70 đã bắt đầu lo chuyện mộ phần. Người ở quê thì dù sao đất đai rộng rãi, đã có quy định của làng xã về nơi an táng, nên chuyện lo trước mộ phần khi còn sống không quá áp lực. Nỗi lo chỉ nằm ở dân thành thị, đất chật người đông, việc kiếm chỗ an táng phải mua ở các khu ngoại thành hay tỉnh lân cận, giá cả cũng từ vài chục triệu, cho đến trăm triệu, thậm chí cả tỷ đồng, tuỳ theo diện tích, vị trí đất, cách xây dựng, trang trí. Việc này gọi là “sinh phần”.

Chuyện sinh phần từ đời trước đã có, chủ yếu là nhà giàu, quan lại. Tác giả Nhất Thanh cho biết: “Mấy nhà quan to hay xây mộ ngay lúc hãy còn sống, gọi là “sinh phần”, để kịp trông thấy tận mắt nơi an nghỉ cuối cùng của mình, thường đích thân điều khiển công việc xây cất, trang trí. “Sinh phần” choáng hàng mẫu đất, thường xây tường hoa bao chung quanh, xây đắp voi, ngựa chầu hai bên, lực sĩ cầm gươm đứng hầu, có bệ thờ, có đình dựng bia. Bia ghi chép tiểu sử công nghiệp của người năm đó. Có ngôi “sinh phần” voi ngựa lực sĩ bằng đá đục chạm công phu, là những công trình điêu khắc. Có ngôi “sinh phần” là cả một tòa nhà cao rộng, xà cột lan can toàn bằng đá chạm trổ tinh vi, kiến trúc nguy nga, tráng lệ…”.

Như vậy, tục xây mộ, “sinh phần” từ xưa và nay đều giống nhau. Mộ to đẹp từ Bắc, Trung, Nam đều có cả. Con cháu giàu có, danh vọng cao, thì mộ người đã khuất và lo cho cả người sống lại lộng lẫy biết nhường nào.

Người chết bây giờ thiêu luôn và chôn chặt một lần, ít gia đình cải táng như xưa nữa, nên người ta chú trọng việc xây dựng phần mộ cho thật chu đáo, tươm tất. “Sống chỉ mặt, chết chỉ mồ”. Tục ta coi trọng phần mộ tiền nhân và cho rằng có thể vì mồ mả làm nên cũng có thể vì mồ mả lụn bại...” (theo “Đất lề quê thói” của tác giả Nhất Thanh.

Nói về tục cải táng, tác giả Phan Kế Bính cũng có ý phê phán: “Thiết tưởng hài cốt tiền nhân, nếu có lòng kính trọng, thương xót, thì chớ nên di đi dịch lại làm gì. Trừ ra những khi vạn bất đắc dĩ thì phải cải đi mà thôi, chớ không nên vì công danh phú quý là việc hy vọng chưa trông thấy mà làm đến việc thương tâm thảm mục. Vả lại việc khai mả cũng có khi quan hệ đến việc vệ sinh thì lại là việc không nên lắm. Còn như gia đình hay dở thì tại người sống một khôn một dại khác nhau, chớ có phải tại đất đâu. Nếu có tại đất cũng không dễ mà tìm được, chẳng qua nhà nào có phúc hậu thì tự nhiên gặp hay, nhà nào bạc ác thì có khi gặp dở, cần gì phải uổng công mệt sức mà đi cầu cái việc vu vơ làm gì”.

Tuấn Ngọc